Cách nhận biết bơ lạt. Bơ lạt động vật phổ biến hơn bơ lạt thực vật, mùi vị và hương thơm cũng được đánh giá là thơm ngon hơn nhưng chúng cũng béo hơn. Nói vậy không có nghĩa là bơ lạt thực vật không béo (đã là bơ thì đều béo cả thôi). Khi tìm mua bơ lạt, bạn
Một trong các chỉ số quan trọng trong các chiến dịch Digital Marketing chính là CPM. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu rõ về chỉ số CPM là gì.Nếu bạn cũng đang tìm hiểu về vấn đề này, hãy cùng viecmarketing.com tham khảo ngay bài viết "CPM là gì? Bật mí những sự thật cần biết từ A đến Z về CPM" ngay sau đấy.
kimconcept.com. Standee là gì. Những điều bạn cần phải biết trước khi mua Standee - Kim Concept | Chuyên gia in sticker , in decal tem nhãh theo yêu cầu. Ở bài viết này Kimconcept xin chia sẻ với mọi người chi tiết về các thông tin liên quan đến Standee. Với bài viết này bạn sẽ nắm rõ
Bộ cờ tỷ phú là gì? Có nên tập cho trẻ e chơi sớm hay không? Hướng dẫn / By Tranadmin. Dạy con làm giàu, dạy con quản lý tiền bạc, … hay nhiều kiến thức khác chẳng phải muốn con bạn sau này có nhiều hiểu biết về lĩnh vực kinh doanh, đầu tư hay sao. Có một cách vừa
In4 là gì. In4 là từ viết tắt giống infor từ Information (thông tin), vốn dĩ cách viết tắt in4 là do cách đọc tắt của information là (hay viết tắt phổ biến hơn là info) hiểu theo kiểu người Việt là in4 ( với cách đọc tương tự gồm in và four trong tiếng anh). Advertisement. In4
Trứng gà là một thực phẩm giàu chất dinh dưỡng và có công dụng làm đẹp cho nhiều chị em phụ nữ. Nếu bạn mơ thấy vài quả trứng gà sống thì đây là điềm báo may mắn báo hiệu bạn sắp được người khác tặng quà. Còn ngược lại, bạn thấy nhiều trứng chồng chất lên nhau thì có thể bạn đang phải đối mặt với kiện tụng, tranh chấp.
2. Cách xem Shopee Rewards trên ứng dụng Shopee. Để xem được Shopee Rewards xem bạn đang có thứ hạng thế nào rất dễ dàng, bạn chỉ cần thực hiện theo các bước như sau: Bước 1: truy cập vào ứng dụng Shopee, sau đó vào phần "Tôi". Bước 2: nhấn vào thanh thành viên. Bước 3
os0zsyG. “Cốc…cốc…lốc cốc…cốc…cốc…lốc cốc…” Tiếng gõ lan dài trong hẻm vắng giữa đêm khuya. Tôi thầm tưởng tượng đến tô mì hay hủ tíu nóng hổi, vài lát thịt xá xíu mỏng manh nằm e ấp giữa màu xanh non của hẹ và xà lách, mấy lát ớt đỏ tươi trên nền những sợi mì vàng ươm hay hủ tíu trắng ngà. Thấp thoáng đâu đây mùi thơm của tóp mỡ giòn rụm và hành phi thơm lừng. Minh Lê Bao tử bắt đầu réo vang, tôi ngỡ mình trở lại những năm 90 khi là sinh viên nghèo mới ra trường, nằm trên căn gác nhỏ lắng nghe tiếng mì gõ mỗi đêm. Tô mì gõ là “cứu tinh của…bao tử” những lần học hay làm về khuya, tuy là món ít tiền nhưng cảm giác ấm lòng lúc đói thì mỹ vị bây giờ ngon mấy cũng không sánh được. Tiếng gõ ấy đã một thời theo tôi vào giấc ngủ, hôm nào vắng nó thì cứ thấy thiêu thiếu. Mà đâu chỉ mình tôi, từng có một người Sài Gòn xưa cũng lắng nghe chăm chú “Tối, khoảng hơn tám giờ – lốc cốc, lách cách, lắc cắc…Có khi nghe cắc…cụp, cụp cắc cụp… nhịp nhàng, vui tai. Tiếng hai thanh tre ngắn gõ vào nhau, khi nặng, khi nhẹ, lúc thưa, lúc nhặt. Một khúc dẹp, một khúc mô tròn lên. Gõ lâu ngày, nên nổi màu vàng nâu bóng lưỡng. Nghe như tiếng sênh, tiếng phách đánh nhịp mấy bài cổ nhạc, cậu bé rao mì đương vô xóm… Trời mưa, vẫn nghe gõ lốc cốc, lách cách nhưng rời rạc, buồn thiu…Có khi đã gần nửa đêm, còn nghe cắc cụp nhưng dè dặt và nho nhỏ.” Minh Hương, Nhớ…Sài Gòn, NXB Thành phố HCM, 1994, trang 102-103 Giờ thi thoảng về lại Sài Gòn, đêm nằm thao thức nhưng không còn nghe gõ. Sự thương nhớ của tôi với mì gõ bỗng lẩn thẩn chuyển thành câu hỏi Mì gõ có ở Sài Gòn từ khi nào, và bắt nguồn từ đâu? Hãy đi theo dòng chảy của lịch sử thông qua ký ức và văn chương của người xưa. Theo Huỳnh Kim, miền Nam đã có xe mì từ trước năm 1910 ở Gò Công “Các tàu Sài Gòn – Gò Công thường đậu lại cầu này…những kẻ bán hàng rong, xe mì mời mọc hành khách xuôi ngược trên đường, tiếng “lắc cắc cụp” của chú tửng gõ hai miếng tre bông trên tay còn văng vẳng…Từ năm 1910, cầu tàu cũ bị bỏ đi không sử dụng nữa.” Huỳnh Kim, Gò Công xưa và nay, tác giả tự xuất bản 1969, trang 222 Nhà văn Hồ Biểu Chánh tả gánh mì gõ ở Mỹ Tho khoảng năm 1923 trong một khung cảnh hết sức miền Nam “Lối nửa chiều, mặt trời ngả bóng xiên-xiên, gió xô nhành lúc-lắc. Khúc đường dựa theo mé sông cái, ngang châu-thành Mỹ-Tho, từ nhà giấy xe lửa sấp lên, thiên-hạ lại qua dập-dìu. Trước khách-sạn có một gánh mì gõ lắc-cắc, dưới gốc cây chị chè đậu rao hò-hơ, học-trò dắt nhau đi chơi, cười giỡn om-sòm, xe kéo không có ai kêu, ngồi khoanh tay riết.” chương 5, Tỉnh mộng, xuất bản 1923, trang Cụ Vương Hồng Sển, trong bài “Ba Thắc Hậu Giang ba mươi năm về trước” đăng báo Chọn Lọc số 39 28/8/1966 trích sách “Ăn cơm mới nói chuyện cũ Hậu Giang Ba Thắc”, NXB Trẻ 2012 , cũng đã ăn mì gõ ở Sóc Trăng lúc nhỏ “…hễ tôi nghe khúc nhạc của chú Tắc nhịp nhịp tre “lắc cắc cụp, lụp cụp lắc cắc”, hoặc nữa hễ mũi tôi lọt được hơi mùi tỏi chiên ở ngã tư đường đầu phố, thì đêm hôm ấy, làm gì thì làm, tôi cũng chừa trong bao tử một chỗ sẵn để chứa tô mì nước hai vắt hay tô bò bún chiên.” trang 246 Tới khi lên Sài Gòn, cụ tả món mì chi tiết hơn “Tô mì trên Sài Gòn, thuở trước chia ra có hai giá. Tô ba xu không có thịt nhưng cũng một vắt mì và nước lèo ngon lành… Tô sáu xu thì có hai vắt mì thêm bốn miếng thịt xá xíu xắt mỏng, một miếng gan heo luộc và một miếng bao tử heo luộc.” trang 246, sách đã dẫn Sài Gòn rộng lớn, cả tiếng gõ mì cũng khác “Để phát ra âm thanh kêu trầm ấm nhưng chắc tiếng , mấy chú bán mì hồi xưa sử dụng hai miếng gỗ cẩm lai dài, được khoét một mặt hơi cong để tạo âm vang, nhưng thế hệ sau này thường xài hai miếng tre già nghe tiếng không “sang” như thuở trước. Kiểu rao này rất giống với mõ làng đi tuần trong thôn xóm, gõ báo sang canh cũng như phòng trộm cắp. Nhưng gõ mì thì nhịp điệu nhiều nhạc tính hơn. A Woong còn nói người bán mì rong hay bán vỉa hè cũng có bang có hội. Người mới vào nghề bán mì là hạng thứ, chỉ được gõ chứ không được đứng nấu. Tiếng gõ mì từ xa còn là cách thông tin cho người nấu biết nấu mấy tô, hủ tíu mì hay mì hoành thánh, để khi quay lại xe không mất thì giờ, đây là quy ước riêng của người nấu và người gõ. Người Hoa từ xưa đã mang nghề bán mì đi khắp thế giới để kiếm sống, nên người đến trước có quyền hạn như Anh lớn Đại Ca , một luật giang hồ của Bang Hội nhưng bất thành văn. Gánh mì trong vùng do “Anh lớn” quản lý, tiếng gõ có những âm thanh khác biệt mà dân trong nghề nghe phải nhận biết để tránh xâm lấn địa giới của đàn anh! Thanh Hoàng, bài “Chú Thòong mì gõ Sài Gòn xưa”, facebook “Dân Sài Gòn Xưa” Như vậy mì gõ đã có mặt ở miền Nam ít nhứt từ đầu thế kỷ 20, vẫn mang tên “mì gõ” và khởi nguồn từ món mì Quảng Đông của người Hoa. Trong khi đó, miền Bắc có món xực tắc. Cuốn “Văn hóa ẩm thực Việt Nam – Các món ăn miền Bắc” NXB Thanh Niên 2002 tả món xực tắc xưa ở Hà Nội “Xực tắc chỉ là mằn thắn của người Hoa bán từ trưa tới khuya. Hai ba giờ sáng vẫn còn văng vẳng nhịp gõ mơ hồ trong đêm sương…Thịt bò, gan luộc, trứng, mì sợi, những viên mằn thắn là thịt băm bọc trong vỏ bột mì cán mỏng. Nước dùng trong vắt, ngọt mùi xắng xáo, thuốc nấu và thế nào cũng thoảng một chút hương vị riêng của món ăn tàu.” trang 151 Sách tả cả người rao hàng “Gánh hàng đỗ một chỗ khuất nào đó. Còn người rao hàng, thường là một thiếu niên, quần áo lam lũ, chân đi đất, đầu đội cái mũ tàng bất cứ kiểu gì loại gì, đi như ma đuổi khắp phố, vừa đi vừa gõ. Có khách gọi, chú chạy thật nhanh như vận động viên nước rút khi về đích, và loáng một cái chú bưng một bát hay một khay mấy bát, mỗi bát đậy một cái vung bằng tôn hình nón, khói còn tỏa mùi thơm hấp dẫn.” trang 151 Còn tại sao gọi là “xực tắc” thì đã có cụ Thạch Lam giải thích giùm “Có lẽ người bán nghĩ rằng quà rao là sực tắc, hai thanh tre gõ vào với nhau như tiếng guốc đi của một gái về đêm, mà sực tắc chính là hai tiếng tàu thực đắc mà ra. Thực đắc là ăn được, cho nên quà chỉ cốt ăn được, không cốt gì ăn ngon.” Hà Nội 36 phố phường, NXB Văn Hóa Thông Tin 2000, trang 128 Cụ Thạch Lam đúng là văn sĩ khi viết một so sánh vừa tượng thanh tượng hình lại tả cả không gian thời gian “như tiếng guốc đi của một gái về đêm”, pha chút hài hước và thâm thúy về hai tiếng “thực đắc”. Vậy xực tắc ở miền Bắc là hoành thánh, còn mì gõ ở miền Nam là mì với thịt xá xíu và gan, bao tử luộc. Dân miền Nam chính gốc từ trước đến nay luôn kêu mì gõ, còn tên xực tắc có lẽ do người Bắc di cư vô Nam năm 1954 quen miệng mà gọi mì gõ. Xực tắc ở miền Bắc chỉ còn là ký ức, nhưng mì gõ đã sống lại ở Sài Gòn từ cuối những năm 1980. Lúc này, bánh không chỉ có mì mà còn có cả hủ tíu, và thịt xá xíu thường được thay bằng thịt heo luộc, có thêm rau xà lách và lá hẹ cắt khúc, không còn gan, bao tử luộc nữa, thay bằng mấy miếng tóp mỡ giòn giòn và hành phi thơm lừng. Nước lèo nấu bằng xương, nêm khá nhiều bột ngọt, vậy mà vẫn ngon lạ ngon lùng. Giai đoạn này, theo các bài trên mạng, người bán mì gõ đa phần là người Quảng Ngãi, và họ thêm bánh hủ tíu bên cạnh mì sợi. Các bài này nói do hủ tíu khô để lâu hơn mì, tôi thấy không đúng lắm, vì thời điểm đó, đã có mì vắt khô. Giả thuyết của tôi là lúc đó hủ tíu khô rẻ hơn mì khô, do mì làm bằng bột mì, mà bột mì phải nhập. Mì gõ bán giá thấp, nên phải tiết kiệm chi phí. Viết về mì gõ Sài Gòn những năm sau này, hoài niệm sống động và độc đáo nhất tôi từng đọc là của nhà báo – MC Trác Thúy Miêu “Một thời gian tôi mướn trọ trên căn gác xép giữa một hẻm bình dân đúng nghĩa điện câu đèn vàng. Cứ khoảng gần nửa đêm, tiếng lóc bóc của thằng nhỏ bán mì gõ lại vang lên, len lỏi vào mê trận không lối ra của những đường ngoặt bất thần chi chít. Thằng nhỏ quê tận đàng ngoài, trôi dạt vô đây phụ việc xe hủ tíu mì như một vạn kiếp di dân mỗi ngày tấp về đây. Nó sẽ chẳng bao giờ nhớ nổi đường ra giữa những lối ngoặt ngoằn ngoèo ác địa của những hẻm bàn cờ đặc trưng phố thị phương Nam này. Ông chú người Tiều sẽ cắm vài cọng nhang vô góc đường gần đó, thằng nhỏ Bắc Kỳ cứ theo mùi nhang, như cọng khói cứu sinh len lỏi hẻm đêm mà lần đường về. Thi thoảng, tiếng lốc cốc leng keng của nó vọng ra cũng đủ khiến ông chú Ba Tàu biết thằng nhỏ liệu đã rong ruổi lỡ bộ quá xa. Họ làm nên một cặp đôi kỳ lạ giữa cái thành phố này, bắt kết vào nhau trong cuộc sinh nhai đôi khi chỉ bằng làn khói hương mỏng mảnh mà không gian ô tạp của ban ngày sẽ nuốt chửng, quậy loãng và làm đứt bể tan tành chỉ bằng một cú đạp máy xe.” Trác Thúy Miêu – Mùi thị dân, 28/6/2015, báo điện tử Người Đô thị Liêu trai mà rất thật! Sài Gòn đâu chỉ có nụ cười hân hoan mà còn có mồ hôi, nước mắt của nhọc nhằn. Nhưng dù cuộc sinh nhai có tàn khốc đến đâu, người Sài Gòn và các di dân Sài Gòn không hề bỏ cuộc, cho dù hy vọng chỉ là làn khói hương mỏng manh giữa dâu bể cuộc đời… Sài Gòn bây giờ, đã lâu rồi không còn tiếng gõ. Bạn tôi cười tôi nhà quê, nói chỉ cần gọi điện thoại là mì đến tận nhà. Xe mì gõ vẫn đậu ở một góc nào đó, chú bé gõ mì nay được trang bị chiếc xe đạp để giao mì nhanh hơn. Nhưng những cảnh đời đằng sau tô mì có ngọt ngào hơn hay vẫn đắng chát, nghẹn ngào như ngày-xưa-mì-gõ? Minh Lê Suối Tiên 10/2020
Mì gõ Có lẽ với những người Việt bây giờ ở độ tuổi từ 60 trở lên, không ai là không một lần biết tới món mì gõ. Trước tiên xe mì gõ khác với một xe mì bình thường. Nếu xe mì Tàu bình thường có tủ kiếng với hình vẽ những điển tích văn hóa Trung Hoa lấp loá trên mặt kiếng cùng những chiếc ghế xếp vây quanh xe thì một xe mì gõ “khúm núm” bình dân hơn, chỉ là một chiếc xe ba bánh trên đó là bếp với nồi nước lèo cùng cái ngăn tủ nhỏ để thịt, rau, mì, và một thùng nước rửa tô rất khiêm tốn nghèo nàn đặt bên cạnh. Thường thì xe mì nhỏ bé ấy chỉ bắt đầu bán từ 5 giờ chiều tới khuya, một cậu bé con chạy khắp xóm, trong tay là hai thanh gỗ gõ lắc cắc như lời “nhắc nhở” những “người quen” trong những hẻm xóm quen thuộc. Ai kêu “mì!” thì cậu lăng xăng ghé vào hỏi mấy tô, rồi chạy gõ gõ cho trọn một vòng xóm trước khi quay về chiếc xe mì mà người cha hay người ông của cậu đang quạt lò đứng chờ múc những vá nước lèo vào tô mì cho khách. Mì gõ quen thuộc với người Sài Gòn đến nỗi nhiều người cứ tưởng chỉ Sài gòn mới có, thực ra xuất xứ của mì gõ có từ những tỉnh miền Tây nam bộ như Định Tường, Sóc Trăng từ những năm 20 của thế kỷ trước. Mì gõ Sài Gòn cũng hơi khác mì gõ miền Tây. Trong khi tại Sài Gòn một tô mì thường có hẹ, một miếng gan luộc và vài lát thịt xá xíu hay thịt luộc trong khi mì miền Tây thường có hoành thánh, đôi khi có cả thịt băm tương tự như xíu mại. Cái chung giống nhau của mì gõ là nước lèo, chỗ nào cũng ngọt cái ngọt của đường phèn và bột ngọt cộng lại, nhưng người ăn lâu dần nên quen không nhận ra cái lờ lợ của bột ngọt trong từng muỗng nước súp. Mì gõ là một nét văn hóa ẩm thực của người thành phố không phải vì chính tô mì mà bởi cái tiếng gõ quen thuộc của nó. Trong khoảng không gian vắng lặng, tiếng gõ của hai thanh gỗ va vào nhau với âm thanh rõ ràng và ngắn gọn dễ khiến cho người ta liên tưởng tới những nỗi buồn hơn là niềm vui, vốn ít ỏi trong lòng người. Có người buồn vì thiếu ăn, thiếu mặc. Có người buồn vì thi rớt, thất tình cũng có người buồn vì đường công danh lận đận…những nỗi buồn thị tứ ấy được tiếng gõ của xe mì hòa tấu hằng đêm chắc chắn sẽ nằm trong ký ức mãi mãi của người nghe nó. Ăn một tô mì đạm bạc giữa cái yên ắng của Sài Gòn cũng là một thưởng ngoạn lý thú. Nếu ăn quen, người ta biết bên dưới tô mì sẽ là những viên tóp mỡ giòn tan béo ngậy và kết thúc tô mì bằng tiếng xì xụp thả dàn vốn là điều cấm kỵ khi ngồi giữa chốn đông người. Nếu là người ăn lần đầu sẽ phát hiện ra những chi tiết mà một tô mì trong tiệm không có tô mì gõ nhỏ nhắn, nước lèo trong vắt nhưng luôn nằm bên dưới những cọng mì không khi nào tràn lên miệng tô. Thịt ít mà mì cũng ít cho nên khi ăn hết cả tô thì cảm giác vẫn còn lưng lửng bụng. Cái cảm giác này làm cho tô mì ngon hơn hẳn, bởi sau khi ăn vừa lưng lửng sẽ khiến người ta thòm thèm hơn là khi no quá. Nước lèo của mì gõ không ngập sợi mì vì hai nguyên nhân, thứ nhất khi chú nhỏ bưng đến tận nhà cho khách không sợ nước lèo sóng sánh ra ngoài. Thứ hai, số lượng mì bán hàng đêm có giới hạn nếu múc nhiều nước sẽ mất đi số tô định sẵn. Hai yếu tố này làm cho tô mì ít đi và vì ít nó làm cho người ăn vẫn….đói. Mì gõ vừa rẻ vừa được mang đến tận nhà nên là người bạn thân quen tiện lợi của giới bình dân, khu xóm lao động. Khó mà bán một tô mì gõ cho người giàu vì hai lẽ, người giàu thường ngủ sớm hoặc có thức khuya thì địa điểm ăn đêm cũng không thể là xe mì gõ. Chọn lựa của họ là các quán cháo đêm ở Chợ Cũ, hay những tiệm mì luôn có chữ Ký phía sau để kêu một tô mì như Hải Ký mì gia hay tệ lắm cũng là mì La Cay chính gốc. Mì gõ thiếu chữ “gia” phía sau nên không “cầu chứng” được cái “sang trọng” của các mì gia, vì thế nó lưu luyến lòng khách hàng của nó qua tiếng gõ. Nếu vào một hiệu “mì gia” người ta có thể nghe tiếng xí xô xí xào của người dọn bàn cũng như giọng la lớn cho người nấu mì biết khách muốn ăn gì thì với xe mì gõ những âm thanh ấy tuyệt nhiên không có. Tiếng gõ là ám hiệu cho ông chủ đang đứng xa xa rằng khách kêu bao nhiêu tô, có thêm thắt gì vào tô mì hay không và có khi tiếng gõ còn cho biết khách quen hay khách ăn lần đầu! Ngôn ngữ của tiếng gõ chỉ có ông chủ và chú nhóc gõ thanh gỗ rao hàng biết với nhau, thứ âm thanh truyền tin ấy càng làm cho tiếng gõ sống động và nhiều người ghiền nghe chúng. Tiếng gõ ấy có lúc lớn lúc nhỏ, lúc nhanh lúc chậm nhịp nhàng hay trúc trắc đều làm cho người quen nghe tiếng của nó vui tai. Nghe lâu thành quen, quen rồi đêm nhớ… cái vòng tròn lửng lơ ấy kéo chiếc xe mì gõ về đêm vào sát tâm hồn con người ta, như một tình thân, một hình ảnh tri âm tri kỷ. Văn hóa là thói quen lặp đi lặp lại với thời gian. Ở điểm này tiếng gõ của một chú bé chạy mì rõ ràng đã hình thành một loại hình văn hóa thú vị và chắc sẽ còn sống rất lâu giữa Sài Gòn bất kể ở thể chế nào, miễn là thể chế ấy vẫn còn người nghèo đô thị. MẶC LÂM
mì gõ là gì