Phân tích bài thơ Thương Vợ - mẫu 4 Tú Xương nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học trung đại. Ông thuộc lớp nhà Nho cuối mùa, sống giữa buổi giao thời, trong lúc thời đại phong kiến suy tàn, những giá trị của quá khứ đang dần mất đi nhưng cái mới chưa kịp hình thành, những nét đẹp truyền thống đang dần rạn vỡ.
Thân bài: phân tích hình ảnh Tú bà. 1. Việc mưu sinh vất vả và khó khăn của Tú Bà. Cho thấy hình ảnh mưu sinh của Tú Bà rất vất vả khó khăn và rất nguy hiểm. 2. Đức tính cao đẹp của Tú Bà. Dù cuộc sống khó khăn, làm việc nặng nhọc nhưng bà không càm ràm, không than
Tôi xin gửi tình yêu và lời chia buồn sâu sắc nhất đến gia đình Robbie". Được biết, Robbie Coltrane qua đời ngày 14/10 (giờ Anh) tại bệnh viện địa phương ở Larbert, Scotland. Ông đã có thời gian dài chống chọi với bệnh tật. Coltrane ra đi ở tuổi 72 tuổi. Ngôi sao 24/7: Rao
- Nhìn vào tấm lưng bạc phếch (nhìn vào cái nghèo đói, đau khổ), ông ta thương vợ nên ông ta đánh vợ => biểu hiện tiêu cực. - Chị không trách chồng mà kéo tội lỗi về phía mình (vẻ đẹp nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam)
Dàn ý ngắn gọn phân tích nhân vật bà Tú trong bài thơ Thương vợ 1. Mở bài - Trình bày khái quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca trung đại: Được nhiều tác giả nhắc đến với tấm lòng trân trọng và niềm cảm thương sâu sắc cho số phận như Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…
Tuy nhiên để làm phong phú thêm phương pháp phân tích kết cấu dàn, tác giả lựa chọn đề tài : "Một cách tiếp cận mới trong việc phân tích (nội lực, chuyển vị) bài toán tuyến tính kết cấu dàn". 7. 2 Mục đích nghiên cứu Nhằm làm phong phú thêm phương pháp giải bài
Dàn ý Cảm nhận 6 câu đầu bài Thương vợ - Tú Xương. Mở bài. - Thương vợ được viết khoảng năm 1896 - 1897. Bà Tú tên Phạm Thị Mẫn, là người vợ hiền thục đảm đang, tần tảo lo cho chồng con, nên tác giá rất quý trọng và có viết một số bài thơ về bà. Trong
sdJ1pH. Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Trần Tế Xương ❤️ 20 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tham Khảo Bài Viết Dưới Đây Gồm Những Gợi Ý Chi Tiết Giúp Bạn Lập Dàn Ý Cùng Với Những Bài Văn Mẫu Hay. Dàn Ý Phân Tích Thương Vợ Chi TiếtPhân Tích Thương Vợ Của Trần Tế XươngPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Hình Ảnh Bà TúPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thương Vợ Hay NhấtPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ngắn GọnPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ FacebookPhân Tích Bài Thương Vợ Chi TiếtPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ngắn NhấtPhân Tích Thơ Thương Vợ Súc TíchPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Học Sinh GiỏiPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Điểm 10Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Hay NhấtVăn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương VợMẫu Phân Tích 4 Câu Đầu Bài Thương VợPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ 6 Câu ĐầuPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Nâng CaoPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế XươngMẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Mở BàiPhân Tích Bài Thơ Thương Vợ Lớp 11 Kết Bài Dàn Ý Phân Tích Thương Vợ Chi Tiết “Thương vợ” là một trong nhưng bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú. Thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, vị tha. Và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương. Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò duyên hai nợ, âu đành phận,Năm nắng mười mưa, dám quản mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không! Nhắm giúp các bạn học sinh hình dung và nắm ý trước khi đi sâu vào phân tích chia sẽ bạn dàn ý chi tiết bài thơ đầy đủ từng phần dưới đây I. Mở bài Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú II. Thân bài 1. Hai câu đề – Hoàn cảnh bà Tú mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông” Thời gian “quanh năm” làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác Địa điểm “mom sông” phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định. ⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định – Lí do “nuôi” chăm sóc hoàn toàn “đủ năm con với một chồng” một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư. ⇒ Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh éo le trái ngang + Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ. ⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con. 2. Hai câu thực – Lặn lội thân cò khi quãng vắng có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn nhiều cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò “Lặn lội” Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng Hình ảnh “thân cò” gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát “khi quãng vắng” thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu ⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ – “Eo sèo… buổi đò đông” gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc + Buổi đò đông Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cranh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu – Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú. ⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú. 3. Hai câu luận “Một duyên hai nợ” ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu “nắng mưa” chỉ vất vả “năm”, “mười” số từ phiếm chỉ số nhiều “dám quản công” Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại. ⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú 4. Hai câu kết Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả Tự ý thức “Có chồng hờ hững” Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng. → Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc. III. Kết bài Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung của tác phẩm Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xẫ hội hôm nay Chia sẽ bạn trọn bài 🍀 Dàn Ý Phân Tích Thương Vợ 🍀 Nhiều mẫu Mẫu phân tích thương vợ của Trần Tế Xương hay sinh động nhất Tú Xương nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học trung đại. Ông thuộc lớp nhà Nho cuối mùa, sống giữa buổi giao thời, trong lúc thời đại phong kiến suy tàn, những giá trị của quá khứ đang dần mất đi nhưng cái mới chưa kịp hình thành, những nét đẹp truyền thống đang dần rạn vỡ… Bởi vậy thơ ông đầy tiếng u uất, chua chát. Nhưng chất trào phúng trong thơ ông chỉ là “chân trái” còn “chân phải” vẫn là chất trữ tình. Thơ ông luôn khắc khoải những suy tư, âu lo rộng là với xã hội, hẹp là với gia đình, với bà Tú – người vợ hết thực tần tảo. Bài thơ Thương vợ đã thể hiện đầy đủ chất trữ tình cũng như chất trào phúng ấy trong thơ ông. Viết về người vợ là điều hiếm thấy trong thơ xưa, đặc biệt là khi người vợ còn sống. Riêng với Tú Xương, ông không chỉ viết về vợ mà còn có hẳng một đề tài riêng về bà Tú Đau mắt, Văn tế sống vợ, Hỏi mình,… điều đó đã cho thấy vị trí, ý nghĩa to lớn của người vợ trong cuộc đời ông. Hai câu đề tác giả giới thiệu tổng quan về bà Tú cũng như công lao to lớn của bà đối với gia đình Quanh năm buôn bán ở môm sôngNuôi đủ năm con với một chồng Tú Xương đã mô tả rất chính xác về nghề nghiệp của bà Tú đó là buôn gạo ở ven sông. Công việc của bà tuần hoàn, đều đặn suốt năm, dường như không có bất cứ lúc nào bà được nghỉ ngơi, có được thời gian cho riêng mình. Không gian bà làm việc cũng chứa đựng đầy sự nguy hiểm. Bà Tú phải làm việc cực nhọc quanh năm, với bao vất vả khó khăn, bà chính là trụ cột của gia đình. Bà không những phải nuôi con mà còn phải nuôi thêm chồng . Vậy là một người đàn bà phải nuôi sáu miệng ăn trong gia đình. Trong câu thơ Tú Xương tự tách mình riêng ra một vế so với năm đứa con, cho thấy ông tự nhận thức được gánh nặng của thân đối với vợ, gánh nặng ấy còn hơn cả năm đứa con. Nếu như những đứa con chỉ cần đáp ứng nhu cầu ăn uống, quần áo cho chúng thì với ông Tú ngoài những nhu cầu cơ bản, còn phải đáp ứng cả thú ăn, thú chơi của ông. Câu thơ thấp một nụ cười tự châm biếm chính mình. Nỗi vất vả, gian truân của bà Tú tiếp tục được tô đậm ở hai câu tiếp theo “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Èo sèo mặt nước buổi đò đông”. Phép đảo ngữ đẩy “lặn lội” “eo sèo” lên đầu câu, tô đậm nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà Tú trong cuộc mưu sinh. “Đò đông” gợi nên sự nguy hiểm trong việc đi lại, buôn bán hàng ngày “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Hình ảnh bà Tú được miêu tả qua phép ẩn dụ “thân cò” đầy ám ảnh, gợi dáng dấp nhỏ bé, chịu đựng, bơ vơ, côi cút đến tội nghiệp. Hình ảnh cái có lặn lội vốn là mẫu gốc trong văn học dân gian, cho thấy sự tảo tần, lam lũ của người lao động, đồng thời gợi sự đồng cảm nơi ngươi. Câu 3,4 với hình ảnh ẩn dụ “thân cò” kết hợp với từ đầy tình tạo hình“lặn lội” đã khắc sâu hơn nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh của bà Tú. Duyên vợ chồng vốn do trời định sẵn, còn “nợ” là gánh nặng, nếu hai người có cuộc sống tốt đẹp ấy là duyên, cuộc sống ngang trái, bất hạnh ấy là nợ. Trong câu thơ “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công” cho thấy cái duyên với chồng thì ít mà cái nợ với nhau thì nhiều. Ông Tú tự nhận thấy mình là cái nợ, là gánh nặng suốt đời của bà Tú. Nhưng bà Tú không hề đay nghiến điều đó, mà hết lòng hi sinh, như một lẽ tự nhiên, âm thầm không đòi hỏi hay oán trách bất cứ điều gì với ông Tú. Với sáu câu thơ đầu, Tú Xương đã khắc họa chân thực và đầy đủ nhất vẻ đẹp tảo tần, chịu thương, chịu khó của bà Tú đối với gia đình. Chỉ đến hai câu thơ cuối cùng hình ảnh ông Tú mới xuất hiện Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không! Tiếng chửi cất lên vô cùng gay gắt, ném vào cuộc đời cũng chính là tự mắng chính mình. “Thói đời” – những quy tắc hà khắc của chế độ phong kiến, phân biệt đối xử, trọng nam khinh nữ, coi việc nhà, việc mưu sinh là của đàn bà. Là cái xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẻ ra thói đời bạc bẽo, những bất công vô lí. Tiếng chửi ấy xuất phát từ lòng yêu thương và biết ơn vô bờ của ông Tú dành cho vợ. Tác phẩm là sự việt hóa của thể thơ thất ngôn bát cú. Tú Xương có sự đan xen, kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất trào phú, trong đó chất trữ tình là chủ đạo để nói lên lòng biết ơn sâu sắc với vợ. Đây đồng thời cũng là nét đặc sắc và độc đáo trong thơ Tú Xương. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Hình ảnh thơ quen thuộc, giản dị tạo cho câu thơ vẻ đẹp tự nhiên, chân thành nhưng vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ. Với dung lượng của một bài thơ ngắn nhưng Tú Xương đã đem đến những nét vẽ đầy đủ và trọn vẹn nhất về vẻ đẹp nhân cách, phẩm chất hi sinh cao quý của bà Tú đối với gia đình. Đồng thời đây cũng là những lời thơ tự trào phúng về sự bất lực của bản thân. Ngoài ra, bài thơ cũng là sự thành công trên nhiều phương diện ngôn ngữ, hình ảnh, kết hợp giữa chất trào phúng và trữ tình. Tặng bạn học sinh 🍀Sơ Đồ Tư Duy Thương Vợ🍀 Trọn Bộ Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Hình Ảnh Bà Tú chia sẻ đến bạn học sinh mẫu phân tích bài thơ thương vợ hình ảnh bà tú một cách đầy đủ hay nhất Tú Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy cảm trước sự đổi thay của nhân tình thế thái. Xã hội thời Tú Xương sống là xã hội đang bị đảo lộn về tất cả ngay cả giá trị thiêng liêng nhất là tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ còn là thứ tình cảm hời hợt bán mua, đổi chác quá ư dễ dàng. Giữa xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất là tình yêu đối với người vợ. Thương vợ là bài thơ hay ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho người vợ vừa có sự cảm thông, chia sẻ và biết ơn vừa là lời tự thán, tự trách bản thân về trách nhiệm của người chồng. Tú Xương ngay mở đầu đã tỏ ra là người chồng biết quan tâm đến vợ, am hiểu công việc làm ăn của vợ Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng. Bà Tú buôn bán ấy là công việc chính bà làm để nuôi chồng nuôi con. Quanh năm chứ đâu phải là ngày một ngày hai bà tiến hành việc buôn bán mà là quanh năm suốt tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Nỗi vất vả của bà Tú kéo dài theo năm tháng. Mom sông là không gian làm ăn của bà. Đó là chỗ đất nhô ra ở bờ sông Vị hoàng chảy qua thành phố Nam Định, một thế đất rất chênh vênh, cheo leo, không vững vàng, sẵn sàng đổ ụp xuống sông bất cứ lúc nào. Thế mới thấy sự nguy hiểm cho tính mạng của bà cùng nỗi vất vả, cực nhọc trong công việc làm ăn. Ở đây không gian mom sông, thời gian quanh năm tô đậm hơn hình ảnh của bà Tú tần tảo, ngược xuôi. Đó là người phụ nữ của bao đời và đến bà Tú càng rõ nét hơn. Câu thơ sau nâng vị thế của bà trở thành người trụ cột của gia đình, còn ông chồng bị hạ xuống hạng ăn bám, là gánh nặng cho vợ. Nuôi đủ năm con với một chồng. Cách đếm năm con với một chồng thật đặc biệt. Nhà thơ đặt ông chồng như những đứa con cũng phải nuôi tựa như ông bé bỏng như con nên phải đếm ngang một miệng ăn, hai miệng ăn. Từ đủ làm toát lên mức độ của việc nuôi nấng ấy. Bà nuôi ông không chỉ cơm no, áo đủ mặc mà còn phải có ít rượu cho ông ngân nga, bộ áo mới cho ông vui vẻ cùng bè bạn. Bà Tú lo tất, bà vừa nuôi, vừa cung phụng cho ông. Gánh nặng chồng con đè nặng lên đôi vai bà Tú. Người phụ nữ như địa vị của bà chỉ làm việc nâng khăn sửa túi cho chồng, việc làm ăn để chồng lo, vậy mà bà phải bứt ra khỏi cảnh sống êm ả bước vào dòng đời xô bồ để lo cơm áo cho sáu miệng ăn, làm thay việc của chồng đủ thấy bà đã hi sinh tất cả vì chồng con. Thấu hiểu hoàn cảnh của vợ, đánh giá xứng đáng công lao của vợ chứng tỏ nhà thơ yêu vợ, thương vợ tha thiết lắm. Hai câu thực tiếp tục mạch cảm xúc cảm thông, chia sẻ Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông Công việc của bà đến đây hiện lên thật rõ nét cụ thể. Bà Tú lặn lội ngược xuôi lúc một mình vượt đường xa, quãng vắng, lúc cãi và giành giật ngay trên sông với những chuyến đò đông khách qua. Sự vất vả, cực nhọc của bà là vậy. Lặn lội, eo sèo thể hiện tính chất gay go của cuộc mua bán. Thương trường là chiến trường, đâu dễ nhường nhịn cho nhau miếng ăn, té ra bà Tú cũng va chạm lời qua tiếng lại gây cảnh eo sèo nhốn nháo trên sông. Câu thơ gợi ta nhớ đến thân phận của người phụ nữ xưa qua câu ca Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non. Con cò xưa và thân cò dường như có sự đồng dạng. Hình ảnh so sánh độc đáo đó càng làm cho tình cảnh bà Tú thêm tội nghiệp đáng thương. Bà Tú có khác gì dáng cò đâu, gầy lêu khêu, bước lững thững, một thân một mình, lếch thếch, lủi thủi. Đối lập cái đơn độc, lẻ loi của bà với vẻ quạnh hiu khi quãng vắng và vẻ tấp nập, đông đúc của buổi đò đông, nhà thơ cực tả những cực nhọc, gian lao của bà để duy trì sự sống cho chồng, con. Ông Tú thấu hiểu điều ấy. Và ông đâu có dửng dưng. Đằng sau từng câu chữ là nỗi niềm chất chứa tâm can. Ông cảm phục vì sức dẻo dai quanh năm làm việc của bà, ca ngợi bà vì bà hết lòng vì chồng con, nhưng một nỗi xót xa, hổ thẹn ngự trị trong lòng ông Tự trách mình chưa làm tròn trách nhiệm của người chồng. Bà Tú biết được tâm sự như thế của ông chắc gánh nặng sẽ vơi đi chút nào và trong tâm chắc cũng được an ủi, động viên. Khó nhọc, gian nan là vậy nhưng bà Tú không một lời than vãn. Ngày tháng, công việc cứ trôi qua im lặng như chính cuộc đời bà Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công. Câu thơ như lời nói rất tự nhiên, đa thanh, có thể coi là lời của ông hoặc bà đều được. Nhưng xưa nay bà có than thân bao giờ, bà chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa tủi cực. Ông Tú vì tấm lòng thương vợ cất lên lời nói thay cho bà. Dùng lối nói dân gian vợ chồng là duyên là nợ. Tú Xương vận rất đúng để nói về bà Tú, cuộc đời bà như vậy vừa là duyên, vừa là nợ, duyên một thì nợ hai, hạnh phúc do duyên mang lại ít, cực nhọc do nợ là phần nhiều, số phận là thế thì đành chấp nhận. Dám quản công tức không dám nề hà, không dám kể công dù có vất vả sương gió nhiều, năm nắng mười mưa. Đã vận vào cái số phận làm sao thoát ra, câu thơ kết thúc bằng thanh trắc âu đành phận cũng khiến cho cảm xúc bị dồn nén nhiều hơn. Hẳn bà Tú không ít lần bực mình, thấy đời sao quá bất công, muốn phản kháng nhưng bà đã dặn lòng an phận, chấp nhận im lặng đến nhẫn nhuc, cam chiu. Nước mắt bà chảy ngược vào trong, bà giữ chặt lòng mình, không muốn cho ai biết nỗi khổ tâm, đau xót ấy. Các số đếm một, hai, năm, mười cùng nhịp thơ ngắn 2/2/3 thể hiện tâm trạng tức tưởi, lắng sâu và kéo dài cuộc đời bà gắn với công việc không bao giờ ngừng nghỉ. Đến đây, Tú Xương nhập hẳn mình vào vợ để lắng nghe từng nỗi niềm u uẩn của bà. Ẩn đằng sau ấy là bao nỗi niềm của ông, một người chồng khổ tâm để vợ xuôi ngược mà không giúp được gì? Câu thơ toát lên ý thương vợ, tự trách rất sâu sắc. Hai câu cuối, tình cảm như được bộc phát mạnh mẽ, không phải lời tâm tình nhẹ nhàng như trước mà là tiếng chửi độc Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không. Tiếng chửi không phải của bà Tú vì bà chấp nhận, cam chịu suốt đời, ông Tú mong bà chửi để gánh nặng lòng ông được vơi bớt, chí ít vì bà coi ông khác lũ con. Sự dồn nén, bức bối buộc ông mượn lời bà để tự chửi mình. Một đấng chồng mà chỉ ngồi ăn bám, vô lo, có khi hạch sách, lên mặt, nhìn vợ tất tả ngược xuôi vất vả còn xứng là chồng không? Ông tự kết án mình đã ăn ở bạc bẽo, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm. Sự hờ hững ấy của ông khiến cho bà càng đau khổ hơn gấp ngàn lần. Gánh nặng vật chất dù chồng chất đến mấy bà Tú củng cố chèo lái lo toan, chịu được nhưng bị hờ hững, bị đối xử tệ bạc, không được sẻ chia sẽ làm cho bà gục ngã ngay. Một ông chồng như thế bà đâu cần, có cũng như không. Lấy bản thân mình, nhà thơ khái quát hiện tượng trên thành thói đời nghĩa là nó rất phổ biến, thường diễn ra. Đó chính là đặc trưng của xã hội đồng tiền buổi giao thời mà nhà thơ sống. Ý nghĩa tố cáo của câu thơ là vạch rõ bản chất xấu xa của xã hội coi nhẹ tình cảm, trọng sĩ diện, danh vọng, tiền tài. Câu thơ khép lại bằng từ không tưởng nhẹ nhàng mà hướng người đọc đến chiều sâu tâm trạng chất chứa nỗi chua xót, tự giận của chồng và niềm đau khổ của người vợ. Bài thơ là tiếng lòng chân thành vừa ngợi ca, cảm phục, chia sẻ, cảm thông trước vất vả, gian nan của bà Tú vừa là lời tự trách, tự lên án của ông Tú. Phải yêu vợ, thương vợ đến mức sâu sắc nhà thơ mới viết nên bài thơ giàu cảm xúc, chân thực như vậy. Chất trữ tình và trào phúng quyện hòa trong nhau đưa người đọc đến những cung bậc tình cảm rất sâu sắc bình dị, đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ vốn căm ghét thế thái nhân tình đổi thay. Tú Xương qua bài thơ gửi đến những người chồng bức thông điệp hãy nói lời yêu thương chia sẻ thật nhiều với người vợ. tặng bạn 🍁 Tóm Tắt Thương Vợ ❤️️ 10 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương Dựa vào dàn ý bên trên bạn đọc đã có thể dễ dàng viết được bài văn phân tích với đầy đủ những ý chính. Tuy nhiên, để bài văn hay hơn thì bạn có thể tham khảo những bài văn mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương sau đây. Bài “Thương vợ” thuộc thể loại thơ trữ tình, bộc lộ tình thương yêu lẫn quý trọng người cần cù, đảm đang, chịu thương chịu khó. Tác giả dựng lên bức chân dung người vợ đảm đang thành hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ truyền thống Việt Nam tháo vát và giàu đức hi sinh. Bài thơ được mở đầu khá ấn tượng, bằng cái vòng thời gian khép kín “quanh năm” của người đàn bà buôn bán, tảo tần lại gói trong một không gian nhỏ hẹp “mom sông”, vì hai chữ “chồng – con” Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng Hơn thế nữa, cái “danh” bà Tú quả cũng xứng với “cành vàng”. Thế mà, trong buổi lao lụng, phải mua bán trong cảnh chen chúc thì quả là đáng thương. Ấy vậy mà bà Tú cũng chỉ “Nuôi đủ năm con với một chồng”. “Nuôi đủ” là nuôi đầy đủ không thiếu thốn, hay nuôi chỉ vừa đủ. Thế cho nên, bà Tú không biết từ lúc nào đã hóa thân thành “Thân cò” để lặn lội nơi sóng nước eo sèo, nơi quãng vắng thưa người, đã gợi lên nỗi đau thân phận Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông. Câu thơ thứ ba, với thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, đã gợi rất nhiều đến hình ảnh con cò trong ca dao Con cò lặn lội bờ sôngGánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non Ca dao Bà Tú hẳn là không khóc nỉ non như người đàn bà trong câu ca dao kia. Nhưng ai dám bảo bà chưa từng khóc trong lòng, ở cái chốn “eo sèo” buổi “đò đông” ? Danh phận một bà Tú, lại như thân cò nơi quãng vắng đã gợi lên sự hẩm hiu, vất vả, đơn chiếc, lại phải mặc cả buôn bán khi đò đông thì hàng hiếm. Tú Xương “gợi nhờ” gánh nặng lên vai người vợ, còn mình mải vui chơi, hưởng lạc và “hư hỏng”. Biết thuốc lá, biết chè tàuCao lâu biết vị hồng lâu biết mùi Hỏi Ông Trời Tú Xương đã ái ngại để rồi sự cảm thông ấy đã đến chỗ cao trào của lòng thương và tự trách mình. Vì mang đến cho vợ thứ duyên nợ không trọn đạo. Câu thơ rơi vào chỗ luận lí về chữ “duyên” với nhiều tầng nghĩa Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản công. Duyên theo nghĩa của dân gian hay nghĩa triết học Phật giáo hoặc nói cách khác Duyên trong “duyên phận”, hay duyên trong “duyên số”, thì trong văn cảnh này, đối với Tú Xương vẫn chỉ sự thiệt thòi về phía vợ. Tú Xương tự trách mình Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không. Chữ “bạc” của Tú Xương dùng trong câu thơ chính là sự trách mình chửi mình. Nhưng lời trách, chửi ấy rất đỗi chân thành. Để rồi, Tú Xương đi đến sự chế giễu cái “vô tích sự” của mình. Ta cũng từng nghe Tú Xương có lần chế giễu cái “chức quan” tại gia, quanh năm chỉ được phép ra “chiếu chỉ” cho con và ăn lương vợ. Hỏi ra quan ấy ăn lương vợĐem chuyện trăm năm trở lại bàn. Quan tại gia Thơ Tú Xương cay độc mà chân thành, trào phúng mà trữ tình, phong lưu mà chung thủy, chửi đời mà chửi mình, cười mình mà khóc mình, trong nỗi đau công danh lận đận, trong nỗi đau thân phận, trong nỗi đau cùng đường tuyệt lối của cảnh cơ hàn. 🌼 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương, tặng bạn ❤️️ Bình Giảng Thương Vợ ❤️️ 15 Mẫu Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thương Vợ Hay Nhất Cập nhật thêm Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thương Vợ Hay Nhất mà sưu tầm được bên dưới bạn nhé. Trần Tế Xương bút danh là Tú Xương là nhà thơ trào phúng nổi tiếng. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình trong tiếng cười có nước mắt. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương. “Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ “mom” thật là hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Từ “mom” là tổng hợp nghĩa của các từ ven, bờ, vực, thềm, thành một từ sáng tạo của nhà thơ làm giầu thêm cho tiếng Việt. Bà Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mà nuôi chồng, nuôi con “Nuôi đủ năm con với một chồng” Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mà tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” là vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mà nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Là vì chồng cũng phải nuôi, mà bà Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã là vất vả. Lại thêm ông Tú nữa thì gánh nặng gấp đôi. Nhưng bà Tú được an ủi là vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm đến từng bước chân của bà trên đường lặn lội buôn bán “Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông” Có thể nói lòng thương vợ của nhà thơ dào dạt lên trong hai câu thơ này. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động. Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ “Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công” Nhân dân ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. Nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình ông Tơ bà Nguyệt. còn “nợ” thì đã thành trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bà Tú. “Năm nắng mười mưa dám quản công” Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu đựng hết. Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa. Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú dành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú. Vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú. Nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử! Ngoài Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thương Vợ, Chia Sẽ Bạn 🍃Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ 🍃 15 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Gọn Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Gọn sẽ giúp các bạn có thêm kinh nghiệm, biết cách sử dụng từ ngữ để diễn đạt bài viết của mình. Niềm xót thương dành cho những người phụ nữ vốn là tiếng lòng trải suốt mọi không gian, thời gian. Trong những câu ca dao, họ đã từng ví mình với “trái bần trôi” để cất lên tiếng hát than thân về số phận bấp bênh. Và ở Tú Xương, những dòng “Thương vợ” mà ông viết cho bà Tú đến nay vẫn có sức hấp dẫn lay động người đọc bởi tình yêu thương và sự biết ơn sâu sắc. “Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng” Trong thời buổi khốn khó, bà Tú phải đảm đương vai trò trụ cột của gia đình bằng việc bán hàng ở mom sông. Công việc ấy diễn ra “quanh năm”, chẳng trừ ngày nào, bất kể mưa nắng. “Quanh năm” là quanh năm suốt tháng, bất kể nắng mưa, nỗi nhọc nhằn của người vợ vì thế cũng lớn dần theo. Thêm vào đó, nơi bà Tú buôn bán không phải nơi phố chợ sầm uất mà là ở “mom sông”, nơi chứa đựng biết bao nguy hiểm. Ông Tú một đời mải chuyện học hành, thi cử, chỉ mình bà Tú lo gánh nặng mưu sinh. Nhưng vẫn “nuôi đủ năm con với một chồng”. Cách đếm con, đếm chồng có phần lạ đời ấy là nỗi niềm chua chát của ông Tú. “Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông” Sự tảo tần, vất vả của bà Tú khiến nhà thơ gợi nhớ đến hình ảnh đầy thân thương của con cò trong ca dao “Cái cò lặn lội bờ sông,Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non” Giữa cái rợn ngợp của không gian “khi quãng vắng”, hình ảnh thân cò hiện lên thật nhỏ bé, đơn côi. Câu thơ đảo động từ “lặn lội” lên đầu lại càng gợi cảm giác xót xa, thương cảm bởi thân phận hẩm hiu của “thân cò”, cũng là thân phận của người phụ nữ. Đi liền với sự biết ơn còn là những dòng thơ thầm kín ca ngợi đức tính đảm đang và hy sinh của bà Tú “Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản công” Vợ chồng gắn bó với nhau bằng cái duyên, cái nợ. Ở đây, nợ nhiều hơn duyên nhưng bà Tú chẳng một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận số phận vì chồng, vì con. Một, hai rồi năm, mười, các số từ cứ tăng tiến dần như muốn làm nổi bật sự vất vả và đức hi sinh thầm lặng của bà Tú. Nỗi tự trào được Tú Xương bật lên ở hai câu cuối khi chửi đời và chửi cả mình “Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không” Nhà thơ như nhập vào nỗi khổ của bà Tú để lên án thói đời bạc bẽo đã làm khổ đời bà. Đời bạc đày ải người vợ hiền đã đành, nay cả chồng cũng vô tâm, hờ hững. Câu thơ chửi đời đã chứa đầy căm phẫn nhưng khi tác giả tự phán xét, lên án bản thân mình còn cay đắng, chua xót hơn. 🍁 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Gọn. Bạn Đọc Khám Phá Thêm 15 Mẫu ❤️️ Nghị Luận Bài Thương Vợ ❤️️ Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Facebook Bài văn mẫu phân tích bài thơ thương vợ facebook sưu tầm tặng bạn học sinh dưới đây Tú Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy cảm trước sự đổi thay của nhân tình thế thái. Xã hội thời Tú Xương sống là xã hội đang bị đảo lộn về tất cả ngay cả giá trị thiêng liêng nhất là tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ còn là thứ tình cảm hời hợt bán mua, đổi chác quá ư dễ dàng. Giữa xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất là tình yêu đối với người vợ. Thương vợ là bài thơ hay ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho người vợ vừa có sự cảm thông, chia sẻ và biết ơn vừa là lời tự than, tự trách bản thân về trách nhiệm của người chồng. Quanh năm buôn bán ở mom sông…Có chồng hờ hững cũng như không. Tú Xương ngay mở đầu đã tỏ ra là người chồng biết quan tâm đến vợ, am hiểu công việc làm ăn của vợ Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng. Bà Tú buôn bán ấy là công việc chính bà làm để nuôi chồng nuôi con. Quanh năm chứ đâu phải là ngày một ngày hai bà tiến hành việc buôn bán mà là quanh năm suốt tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Nỗi vất vả của bà Tú kéo dài theo năm tháng. Mom sông là không gian làm ăn của bà. Đó là chỗ đất nhô ra ở bờ sông Vị Hoàng chảy qua thành phố Nam Định, một thế đất rất chênh vênh, cheo leo, không vững vàng, sẵn sàng đổ ụp xuống sông bất cứ lúc nào. Thế mới thấy sự nguy hiểm cho tính mạng của bà cùng nỗi vất vả, cực nhọc trong công việc làm ăn. Ở đây không gian mom sông, thời gian quanh năm tô đậm hơn hình ảnh của bà Tú tảo tần, ngược xuôi. Đó là người phụ nữ của bao đời và đến bà Tú càng rõ nét hơn. Câu thơ sau nâng vị thế của bà trở thành người trụ cột của gia đình, còn ông chồng bị hạ xuống hạng ăn bám, là gánh nặng cho vợ. Nuôi đủ năm con với một chồng. Cách đếm năm con với một chồng thật đặc biệt. Nhà thơ đặt ông chồng như những đứa con cũng phải nuôi tựa như ông bé bỏng như con nên phải đếm ngang một miệng ăn, hai miệng ăn. Từ đủ làm toát lên mức độ của việc nuôi nấng ấy. Bà nuôi ông không chỉ cơm no, áo đủ mặc mà còn phải có ít rượu cho ông ngân nga, bộ áo mới cho ông vui vẻ cùng bè bạn. Bà Tú lo tất, bà vừa nuôi, vừa cung phụng cho ông. Gánh nặng chồng con đè nặng lên đôi vai bà Tú. Người phụ nữ như địa vị của bà chỉ làm việc nâng khăn sửa túi cho chồng, việc làm ăn để chồng lo, vậy mà bà phải bứt ra khỏi cảnh sống êm ả bước vào dòng đời xô bồ để lo cơm áo cho sáu miệng ăn, làm thay việc của chồng đủ thấy bà đã hi sinh tất cả vì chồng con. Thấu hiểu hoàn cảnh của vợ, đánh giá xứng đáng công lao của vợ chứng tỏ nhà thơ yêu vợ, thương vợ tha thiết lắm. Hai câu thực tiếp tục mạch cảm xúc cảm thông, chia sẻ Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông Công việc của bà đến đây hiện lên thật rõ nét cụ thể. Bà Tú lặn lội ngược xuôi lúc một mình vượt đường xa, quãng vắng, lúc cãi và giành giật ngay trên sông với những chuyến đò đông khách qua. Sự vất vả, cực nhọc của bà là vậy. Lặn lội, eo sèo thể hiện tính chất gay go của cuộc mua bán. Thương trường là chiến trường, đâu dễ nhường nhịn cho nhau miếng ăn, té ra bà Tú cũng va chạm lời qua tiếng lại gây cảnh eo sèo nhốn nháo trên sông. Câu thơ gợi ta nhớ đến thân phận của người phụ nữ xưa qua câu ca Cái cò lặn lội bờ sôngGánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non. Con cò xưa và thân cò dường như có sự đồng dạng. Hình ảnh so sánh độc đáo đó càng làm cho tình cảnh bà Tú thêm tội nghiệp đáng thương. Bà Tú có khác gì dáng cò đâu, gầy lêu khêu, bước lững thững, một thân một mình, lếch thếch, lủi thủi. Đối lập cái đơn độc, lẻ loi của bà với vẻ quạnh hiu khi quãng vắng và vẻ tấp nập, đông đúc của buổi đò đông, nhà thơ cực tả những cực nhọc, gian lao của bà để duy trì sự sống cho chồng, con. Ông Tú thấu hiểu điều ấy. Và ông đâu có dửng dưng. Đằng sau từng câu chữ là nỗi niềm chất chứa tâm can. Ông cảm phục vì sức dẻo dai quanh năm làm việc của bà, ca ngợi bà vì bà hết lòng vì chồng con, nhưng một nỗi xót xa, hổ thẹn ngự trị trong lòng ông Tự trách mình chưa làm tròn trách nhiệm của người chồng. Bà Tú biết được tâm sự như thế của ông chắc gánh nặng sẽ vơi đi chút nào và trong tâm chắc cũng được an ủi, động viên. Khó nhọc, gian nan là vậy nhưng bà Tú không một lời than vãn. Ngày tháng, công việc cứ trôi qua im lặng như chính cuộc đời bà Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản công. Câu thơ như lời nói rất tự nhiên, đa thanh, có thể coi là lời của ông hoặc bà đều được. Nhưng xưa nay bà có than thân bao giờ, bà chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa tủi cực. Ông Tú vì tấm lòng thương vợ cất lên lời nói thay cho bà. Dùng lối nói dân gian vợ chồng là duyên là nợ. Tú Xương vận rất đúng để nói về bà Tú, cuộc đời bà như vậy vừa là duyên, vừa là nợ, duyên một thì nợ hai, hạnh phúc do duyên mang lại ít, cực nhọc do nợ là phần nhiều, số phận là thế thì đành chấp nhận. Dám quản công tức không dám nề hà, không dám kể công dù có vất vả sương gió nhiều, năm nắng mười mưa. Đã vận vào cái số phận làm sao thoát ra, câu thơ kết thúc bằng thanh trắc âu đành phận cùng khiến cho cảm xúc bị dồn nén nhiều hơn. Hẳn bà Tú không ít lần bực mình, thấy đời sao quá bất công, muốn phản kháng nhưng bà đã dằn lòng an phận, chấp nhận im lặng đến nhẫn nhuc, cam chịu. Nước mắt bà chảy ngược vào trong, bà giữ chặt lòng mình, không muốn cho ai biết nỗi khổ tâm, đau xót ấy. Các số đếm một, hai, năm, mười cùng nhịp thơ ngắn 2/2/3 thể hiện tâm trạng tức tưởi, lắng sâu và kéo dài cuộc đời bà gắn với công việc không bao giờ ngừng nghỉ. Đến đây, Tú Xương nhập hẳn mình vào vợ để lắng nghe từng nỗi niềm u uẩn của bà. Ẩn đằng sau ấy là bao nỗi niềm của ông, một người chồng khổ tâm để vợ xuôi ngược mà không giúp được gì? Câu thơ toát lên ý thương vợ, tự trách rất sâu sắc. Hai câu cuối, tình cảm như được bộc phát mạnh mẽ, không phải lời tâm tình nhẹ nhàng như trước mà là tiếng chửi độc Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không. Tiếng chửi không phải của bà Tú vì bà chấp nhận, cam chịu suốt đời, ông Tú mong bà chửi để gánh nặng lòng ông được vơi bớt, chí ít vì bà coi ông khác lũ con. Sự dồn nén, bức bối buộc ông mượn lời bà để tự chửi mình. Một đấng chồng mà chỉ ngồi ăn bám, vô lo, có khi hạch sách, lên mặt, nhìn vợ tất tả ngược xuôi vất vả còn xứng là chồng không? Ông tự kết án mình đã ăn ở bạc bẽo, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm… Sự hờ hững ấy của ông khiến cho bà càng đau khổ hơn gấp ngàn lần. Gánh nặng vật chất dù chồng chất đến mấy bà Tú cũng cố chèo lái lo toan, chịu được nhưng bị hờ hững, bị đối xử tệ bạc, không được sẻ chia sẻ làm cho bà gục ngã ngay. Một ông chồng như thế bà đâu cần, có cũng như không. Lấy bản thân mình, nhà thơ khái quát hiện tượng trên thành thói đời nghĩa là nó rất phổ biến, thường diễn ra. Đó chính là đặc trưng của xã hội đồng tiền buổi giao thời mà nhà thơ sống. Ý nghĩa tố cáo của câu thơ là vạch rõ bản chất xấu xa của xã hội coi nhẹ tình cảm, trọng sĩ diện, danh vọng, tiền tài. Câu thơ khép lại bằng từ không tưởng nhẹ nhàng mà hướng người đọc đến chiều sâu tâm trạng chất chứa nỗi chua xót, tự giận của chồng và niềm đau khổ của người vợ. Bài thơ Thương vợ là tiếng lòng chân thành vừa ngợi ca, cảm phục, chia sẻ, cảm thông trước vất vả, gian nan của bà Tú vừa là lời tự trách, tự lên án của ông Tú. Phải yêu vợ, thương vợ đến mức sâu sắc nhà thơ mới viết nên bài thơ giàu cảm xúc, chân thực như vậy. Chất trữ tình và trào phúng quyện hòa trong nhau đưa người đọc đến những cung bậc tình cảm rất sâu sắc bình dị, đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ vốn căm ghét thế thái nhân tình đổi thay. Tú Xương qua bài thơ gửi đến những người chồng bức thông điệp hãy nói lời yêu thương chia sẻ thật nhiều với người vợ. Phân Tích Bài Thương Vợ Chi Tiết chia sẽ bạn mẫu phân tích bài thương vợ chi tiết Nói đến thơ trào phúng không ai có thế quên ông, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc “Cha thằng nào có tiếc không cho”. Mang nỗi nhục nô lệ của một tri thức, ông chua chát “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”… Đó là ngoài xã hội, còn trong gia đình ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ vả cái vai trò “hờ hững” của mình. Chắc rằng các cụ ông ngày xưa phần lớn là thương vợ thương con, nhưng vì một quan niệm nào đấy, thường ngại bộc lộ tình cảm của người chồng, nhất là lại thể hiện tình cảm với người vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực đen, qua văn chương thì lại càng ít. Thế kỉ XIX, có hai nhà thơ cùng người thành Nam, Nguyễn Khuyến và Tú Xương, đã không ngần ngại nói lên tình thương yêu của người chồng đối với vợ ngay khi các bà còn đang sống. Nhưng về chủ đề này, Thương vợ của Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực. Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Buôn bán cũng là một nghề như mọi nghề khác, người ta hành nghề để kiếm sống. Người xưa còn coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu phi thương bất phú. Nhưng việc buôn bán của bà Tú thì không được thế. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảng đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhã hơn hoặc phát triển việc “buôn bán” lên một cấp độ cao hơn. Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu, cao hứng còn lên phố đi hát, cũng tiền vợ nốt.. Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào! Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc … Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non; … Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình. Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời Thương thay thân phận con rùa/Thân em như chẽn lúa đòng đòng/Thân em như hạt mưa sa…. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng chất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt. Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông. Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định âu đành phận / dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than. Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không. Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật “Cha mẹ thói đời…”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi báo cô. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thư có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn mướn không công. Thân này ví biết dường này nhỉ Thà trước thôi đành ở vậy xong. Tóm lại, nổi bật trong bài thơ là hình ảnh bà Tú hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp tần tảo, đảm đang, nhẫn nại quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con. Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, những con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà. Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả. Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Nhất Bài phân tích bài thương vợ ngắn nhất Tú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ trào phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười làm vũ khí chế giễu và đả kích sâu cay bộ mặt xấu xa, đồi bại của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình người và tình đời sâu nặng. “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo. Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” câu đối của Nguyễn Khuyến thì bà Tú lại là một người đàn bà “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng” “Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác, không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “buôn bán ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,… chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”. Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, đảm đang của mình. Phần thực, tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. Ngôn ngữ thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò” cái cò trong ca dao cổ “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ “Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông” “Eo sèo” là từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai đẳng gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hồ, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt “Một duyên hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa dám quản công.” “Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình. “Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le. Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tài năng điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, thành ngữ và hình ảnh “thân Cò” … đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn văn chương. Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!” Trách mình “ăn lương vợ”, mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, cho nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”. Hai câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi! Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ngôn ngữ thơ bình dị như là tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể bà Tú với “năm con, một chồng” vừa khái quát sâu sắc người phụ nữ ngày xưa. Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ’” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam. Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Phân Tích Thơ Thương Vợ Súc Tích Bài văn mẫu phân tích thơ thương vợ súc tích nhất “Thương vợ” thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của Tú Xương với vợ mình Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn trào phúng và trữ tình. Có bài hoàn toàn là đả kích, châm biếm, có bài thuần là trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối ngăn cách. Thường là châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. Ngược lại, trữ tình thấm thía cũng pha chút cười cợt theo thói quen trào phúng. Thương vợ là một bài thơ như vậy. Thương vợ là bài thơ phản ánh hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của Tú Xương đối với người vợ của mình. Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng. Chỉ bằng vài lời kể nôm na, bình dị, Tú Xương đã giúp người đọc hình dung ra cảnh bà Tú một mình mang trên vai gánh nặng gia đình, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ. Mom sông là mỏm đất nhô ra dòng sông, cũng là một địa điểm ở phía Bắc thành phố Nam Định. Ngày xưa, đây là nơi trên bến dưới thuyền, người từ các nơi đổ về buôn bán. Quanh năm, bà Tú làm ăn ở đó để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống gia đình gồm hai vợ chồng và năm đứa con thơ. Quanh năm buôn bán có nghĩa là không nghỉ ngơi ngày nào. Hơn nữa, chữ mom sông càng tô đậm thêm cái thế chênh vênh, không vững vàng của công việc làm ăn. Mom sông ba bề là nước, có thể đổ ùm xuống sông lúc nào không biết. Ở cái mỏm đất chênh vênh ấy, hình ảnh bà Tú dường như càng nhỏ bé và cô đơn. Một mình bà phải xông pha nơi đầu sông ngọn nguồn, vất vả tội nghiệp biết bao! Trên đây là thời gian, không gian và cả tính chất công việc làm ăn buôn bán của bà Tú. Tại sao bà Tú lại chấp nhận sự lam lũ, vất vả như thế? Đương nhiên là để nuôi chồng, nuôi con. Ngày xưa, xã hội phong kiến dành cho phụ nữ bổn phận là thờ chồng, nuôi con. Với bà Tú, chắc chắn là có chuyện thờ chồng. Thờ chồng bao hàm cả nghĩa vụ nuôi chồng. Đó là sự bất công của xã hội, nhưng xét về mặt đức độ thì sức đảm đang tháo vát của những người vợ như bà Tú thật đáng nể phục. Cái không bình thường trong bài thơ là cách đếm số người. Giá như tính gộp lại là sáu miệng ăn và một mình bà Tú mà phải cáng đáng đến chừng ấy cũng đã là nhiều. Trên đời, phần lớn phụ nữ cũng gặp cảnh như thế. Đằng này, tác giả đếm rõ ràng là năm con với một chồng. Đặc biệt là tách riêng ông chồng ra và đếm là một. Xuân Diệu có nhận xét rất hay khi đọc câu thơ này “Hoá ra ông chồng cũng phải nuôi, tựa hồ như lũ con bé bỏng nên mới đếm ngang hàng với chúng nó một miệng ăn, hai miệng ăn…”. Mà bà Tú nuôi chồng đâu có đơn giản như nuôi con. Cơm ăn đã đành, đôi khi phải có tí rượu tí trà cho ông ngâm nga câu thơ câu phú. Áo mặc đã đành, còn phải có bộ cánh tử tế cho ông đi đây đi đó, chứ ai lại để cho ông quanh năm “Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông” và “Một đoàn rách rưới con như bố”. Lại phải cho ông xỏng xảnh ít tiền trong túi để gặp bạn, gặp bè. Ấy thế mà bà nuôi đủ, tức là đủ cả về số lượng lẫn chất lượng. Như vậy là bà Tú không chỉ nuôi ông Tú mà còn cung phụng, còn thờ. Nhưng kể ra được những điều ấy chứng tỏ là ông chồng thấu hiểu và biết đánh giá một cách xứng đáng công lao của bà vợ. Như vậy là thương vợ. Đến câu thứ ba, hình ảnh bà Tú một mình thui thủi làm ăn càng hiện lên cụ thể và rõ nét hơn Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Tú Xương dùng một hình tượng quen thuộc trong văn chương dân gian nói về người phụ nữ lao động ngày xưa Con cò lặn lội bờ sông… nhưng ông không so sánh mà đồng nhất thân phận bà Tú với thân cò. Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ này cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, khó nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói quãng vắng là tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường. Eo sèo chi sự nói đi nói lại, có ý bất bình. Đò đông có thể hiểu hai cách một là đò ngang đã chở đầy người, hai là đò từ các nơi tập hợp lại rất đông. Hiểu cách nào cũng đúng với ý định đặc tả nỗi khó nhọc, gian nan trong cảnh kiếm ăn của bà Tú. Bên cạnh nỗi khổ vật chất còn có nỗi khổ tinh thần. Vì chồng con mà phải lặn lội đường xa quãng vắng, nhưng liệu chồng con có biết cho chăng? Và bà Tú cứ âm thầm lo toan như vậy cho đến hết đời, hết kiếp… số phận bà là vậy. Câu thơ miêu tả mà đầy chất trữ tình, nghe thật xót xa, tội nghiệp! Ông Tú tỏ ra thông cảm với nỗi khó nhọc của vợ và thương vợ đến vậy là sâu sắc. Ông Tú hiểu thấu công việc làm ăn của bà Tú. Khi quãng vắng, buổi đò đông, bà đều vất vả khó nhọc, không kể gian nan, không quản thân mình, một lòng vì chồng, vì con. Bà Tú mà nghe được những lời như thế của ông chắc cũng thấy gánh nặng trên vai mình nhẹ bớt và trong thâm tâm bà cũng được an ủi ít nhiều. Nhưng không phải chỉ có thế, giọng điệu trữ tình kín đáo lồng trong hai câu tường thuật miêu tả câu 3, 4 chứng tỏ tim ông Tú không phải dửng dưng. Thương vợ nhưng cũng là tự trách mình. Không phải chỉ tự coi mình là một miệng ăn để vợ phải nuôi mà còn hổ thẹn, thấy mình có cái gì đó như nhẫn tâm. Ông chồng trụ cột gia đình là mình ở đâu rồi mà để vợ phải nhọc nhằn, gian nan đến vậy? Tự trách mình như thế cũng là thương vợ thêm sâu. Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công. Tú Xương lại vận dụng thêm một thành ngữ, một câu ca dân gian khác Vợ chồng là duyên là nợ, Một duyên hai nợ ba tình… Vợ chồng gặp nhau là do ông Tơ bà Nguyệt sắp đặt từ kiếp trước. Có duyên thì tốt đẹp, hạnh phúc, là nợ thì đau khổ một đời. Có lẽ ở đây, ông Tú mượn tâm tư bà Tú mà suy ngẫm hay đúng ra, ông hoá thân vào bà để cảm thông sâu sắc hơn lấy chồng như thế này thì cũng là duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận. Ôi! Lấy vợ lấy chồng, người ta bảo là duyên là nợ, nghĩ cũng đúng thật! Số phận đã như thế thì cũng đành thôi, chứ biết làm thế nào?! Cái số kiếp người phụ nữ như tấm lụa đào, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước, như cơm nguội đỡ khi đói lòng… Trách làm sao được! Vậy thì còn dám kể gì gian lao, dám quản gì mưa nắng! Lại thêm nghĩa của mấy nhóm từ âu đành, dám quản. Âu đành là một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục… Dám quản tức là không dám kể gì đến công lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong. Vậy là chỉ bốn câu thơ mà chân dung bà Tú hiện lên hoàn chỉnh từ vất vả bon chen, lăn lộn ở ngoài đời, đến năm liệu bảy lo trong gia đình, từ con người của công việc làm ăn, đảm đang tháo vát, chịu thương chịu khó, đến con người của đức độ, thảo hiền, đầy tinh thần vị tha. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của những người vợ, người mẹ Việt Nam. » Có thể bạn muốn xem Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ để hiểu rõ hơn những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời xưa. Thương vợ mà nói ra là mình thương thì cũng đã quý. Ở đây, ông Tú đã nhập thân vào bà Tú để thấu hiểu nỗi niềm và thể hiện tình cảm của mình bằng những lời thơ chân thành, thấm thía. Như vậy mà không phải là thương vợ sâu sắc hay sao? Đó là thương vợ, còn tự trách mình? Ngày ngày ngồi không, làm một miệng ăn cho vợ nuôi, điềm nhiên hưởng thụ trong khi vợ phải ngược xuôi tần tảo, nghe cũng đã có cái gì đó bất nhẫn. Nay vợ thầm oán trách, tủi hờn mà quy số phận bất hạnh ấy là do một duyên hai nợ, thử hỏi ông chồng làm sao mà không nhận thấy lỗi của mình? Tự trách đến như vậy là ngoài tình thương vợ đã có thêm ý thức trách nhiệm. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không. Câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Không phải lần này ông Tú mới chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng đã từng chửi – chửi mình mà thực ra là chửi đời Người đói, ta đây cũng chẳng no,/ Cha thằng nào có, tiếc không cho. Chỉ khác ở chỗ là lần này, lời chửi tuy có ném thẳng vào đời, nhưng trước hết là ném vào mình. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Mà ông phải đặt câu chửi ấy vào miệng bà Tú thì mới đích đáng! Nhưng bà Tú vốn con gái nhà dòng, chẳng đời nào lại chanh chua, thô tục dám chửi chồng. Nhưng đối với ông Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là giận mình thật sự. Bài thơ ông viết ra cốt để bày tỏ tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là đồ tầm thường, vô tích sự. Bà Tú vất vả đến thế, ông Tú tự trách mình đến thế thì đương nhiên là phải bực bội đến bật ra tiếng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, nguyền rủa mình bằng câu chửi đổng mới xứng với tội lỗi, ông Tú lại chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mà dùng luôn cách chửi dân gian Cha mẹ thói đời. Bà Tú không hề coi chồng là ăn ở bạc, nhưng ông Tú thì gọi đích danh tội lỗi của mình ra như vậy, vợ chồng với nhau mà như thế thì còn gì mà không ông Tú lại không nói trực tiếp là mình ăn ở bạc mà khái quát nó lên thành thói đời. Thói đời đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thành thị điều đó càng tệ hại hơn. Hoá ra đệ tử của thánh hiền là ông Tú mà cũng bị nhiễm cái thói đời xấu xa ấy. Như vậy là từ hổ thẹn, ông Tú đã đi tới chỗ xót xa, tự trách. Câu kết là sự phán xét vô cùng đau đớn nhưng cũng rất công minh, ông Tú xỉ vả mình là ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức hờ hững. Hờ hững trước việc nhà, trước mọi lo toan, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Đã là vợ chồng, trăm sự cùng lo mới phải. Bà Tú không bắt buộc ông vất vả như bà mà chỉ mong ông đừng hờ hững, ông hãy quan tâm lo cho gia đình chút ít, trước hết là ông hiểu cho bà, như thế cũng đủ cho bà ấm lòng và có niềm vui. Cả bài thơ cô đúc lại ở ý này ở câu đề, ông chồng có mặt với tư cách là một miệng ăn phải nuôi, ở câu thực, câu luận, ông chồng vắng bóng. Bài thơ chấm dứt bằng sự day dứt, ân hận trong câu kết Có chồng hờ hững cũng như không, càng làm tăng thêm nỗi thương vợ của nhà thơ. Đó là cách nói của Tú Xương, đã nói gì là nói ráo riết đến tận cùng. Tuy nhiên, có điều này ông đã nói oan cho mình đó là hai chữ hờ hững. Vì giận mình mà ông nói thế thôi, chứ thực lòng ông đâu có hờ hững với bà. Bởi nếu ông hờ hững thì đã không có bài Thương vợ thấm thía và cảm động đến như vậy. Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Học Sinh Giỏi Mẫu phân tích bài thương vợ học sinh giỏi Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất. Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ. Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi Quanh năm buôn bán ở mom sông. Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian như con cò trong ca dao mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương Lặn lội thân cò khi quãng vắng Là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu câu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn. Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú Eo sèo mặt nước buổi đò đông Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con Con ơi nhơ lấy câu này/Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cau gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ khi quãng vắng đối với buổi đò đông nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương tấm lòng xót thương da diết. Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát Nuôi đủ năm con với một chồng Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức “Cơm hai bữa cá kho rau muống – Quà một chiều khoai lang, lúa ngô” Thầy đồ dậy học. Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ Năm nắng mười mưa dám quản công Ở câu thơ này, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo năm nắng mười mưa vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Về câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng”, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hy sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rửa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án Có chồng hờ hững cũng như không Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bản đối với người phụ nữ “xuất giá tòng phu” lấy chồng theo chồng, đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng, phụ tuỳ” chồng nói, vợ theo, thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao. Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn. Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc. Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Điểm 10 Mẫu phân tích bài thơ thương vợ giúp học sinh đạt điểm 9, 10 dưới đây “Thân em như của ấu trong thì trắng vỏ ngoài thì đen,Ai ơi nếm thử mà ra mới biết rằng em ngọt bùi,” Ca dao Hình ảnh của người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở cho nền văn chương kim cổ Việt Nam. Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của một người chồng đã ít nay lại viết về người vợ đang sống lại còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là một trong những bậc thức giả hiếm hoi của nền thơ ca trung đại Việt Nam đã đưa hình ảnh người vợ tần tảo của mình ngay khi bà vẫn còn là một đóa hoa tươi tắn trên đường đời vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng làm bật lên được đức hi sinh đảm đang, tấm lòng tháo vát chịu thương chịu khó của người bạn đời, bà Tú, qua đó cũng thể hiện tấm lòng tri ân đến người vợ của mình “Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không.” Trần Tế Xương, thường gọi là Tú Xương, sống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa thực dân Pháp – nửa phong kiến. Ông là người thông minh, ham học, hào hoa, phóng túng, có tài làm thơ hay nhưng lại lận đận trên con đường thi sử và nổi tiếng chủ yếu ở hai mảng thơ trào phúng và trữ tình có pha chút giọng cười châm biếm sắc xảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân, với nước, với đời. Ông từng được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Kho tàng thơ văn của Tú Xương tuy không nhiều chỉ với 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ như thất ngôn bát cú đường luật, lục bát,… và một số bài văn tế, phú, câu đối… nhưng có nhiều bài rất đặc sắc, đạt đến trình độ tuyệt mĩ về cả nội dung và nghệ thuật và được xem như những bài thơ bất tử. Minh chứng rõ ràng nhất đó là thi phẩm “Thương vợ” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ đề cập đến nhiều khía cạnh trong xã hội, đồng thời cũng là tiếng lòng tha thiết, sự tri ân đầy xót xa của Tú Xương – nạn nhân của xã hội lố lăng, đảo điên biến con người trở thành vô tích sự với chính mình và gia đình, đối với bà Tú, qua đó, người đọc cũng phần nào thấy được những đức hi sinh to lớn của những người phụ nữ lúc bấy giờ hay của bà Tú đối với người chồng của mình. Mở đầu tác phẩm, Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà Tú, qua đó bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với người vợ tảo tần sớm mai của mình “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng.” Mạch cảm xúc của thi phẩm dần dần mở ra với bức tranh toàn cảnh đầy nỗi khó nhọc, lo toan của bà Tú – tên thật là Phạm Thị Mẫn. Tác giả đã sử dụng “Quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian trường kì lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên để cực tả nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải dài hết ngày tháng này sang ngày tháng khác, năm này qua năm nọ mặc cho nắng gắt hay mưa rào vẫn không bỏ sót giây phút nào cả. Chỉ có thế thôi cũng đủ để lại trong lòng độc giả một ấn tượng khó phai về hình ảnh người vợ đầu tắt mặt tối chu toàn mọi sự trong gia đình như bà Tú. Chưa dừng lại ở đó, cách cân đo, đong đếm như thế của thời gian còn góp phần làm bật lên cái không gian, địa điểm bán buôn của bà Tú thông qua hình ảnh “mom sông”. Địa thế “mom sông” rất trắc trở, đầy rẫy những hiểm nguy khôn lường bởi lẽ đó chỉ là một doi đất nhô ra phía lòng sông nơi người làng chài thường tụ tập buôn bán nên những khi tiết trời khắc nghiệt, địa thế chênh vênh mỏng manh kia sẽ dễ sạt lở gây nhiều khó khăn cho bà Tú. Khó khăn là thế, gian nan là vậy nhưng bà Tú vẫn mạnh mẽ vượt qua, luôn luôn cố gắng để cho gia đình được ấm no “Nuôi đủ năm con với một chồng.” Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến xưa đã biến những người đàn ông vốn là những trụ cột vững chắc trong gia đình thành những kẻ vô tích sự chỉ biết sống dựa vào vợ, mà đặc biệt là “ăn lương vợ” “Trống hầu chưa dứt bố lên thang,Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ.” Quan tại gia – Trần Tế Xương Đôi vai của bà Tú đã nặng nay còn nhân lên bội phần khi bà “bất đắc dĩ” trở thành trụ cột chính trong gia đình. Hai chữ “nuôi đủ” là vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu mà cũng không thừa vang lên tạo cho câu thơ một âm điệu trang trọng nhưng cũng không kém phần tự hào gợi tả sự đảm đang tột cùng nơi bà Tú khi chỉ với công việc buôn bán “quanh năm” ở nơi “mom sông” chênh vênh, nguy hiểm mà bà vẫn có thể đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ cho “năm” đứa con và người chồng của mình. Bên cạnh đó, cách đặt hai danh từ số đếm “năm” và “một” song song với nhau tưởng chừng như khập khiễng nhưng lại rất độc đáo và mới lạ. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân ngang hàng với “năm đứa con thơ” vì ông là một “đứa con đặc biệt” ngầm nâng cao vị thế người vợ tảo tần của mình lên một thứ bậc thiêng liêng khác như một người “mẹ hiền” để có thể đề cao công lao của bà Tú một cách chí lí và chuẩn xác nhất. Hơn thế nữa, cấu trúc “năm” – “một” cùng liên từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn, buồn bã đã khắc họa nên chiếc đòn gánh mà ở giữa là đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của người phụ nữ chịu thương chịu khó còn hai bên đều trĩu nặng với “năm con” và “một chồng” nhưng dường như sự khó khăn lại nghiêng lệch về phía người chồng vô tích sự nhiều hơn vì chế độ “trọng nam khinh nữ” rẻ rúng trong xã hội cũ. Có thể nói, bà Tú “nuôi đủ” cho Tế Xương không chỉ chu toàn cho ông “chăn ấm, nệm êm” mà còn lo cho ông đủ thứ cao sang tốn kém khác để khiến ông phải nở mày nở mặt vì suy cho cùng, Tế Xương vẫn là một tú tài, là người có chí thi cử công danh “Biết thuốc lá, biết chè tàu,Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.” Hỏi ông trời – Trần Tế Xương Hay “Hôm qua anh đến chơi đây,Giày “giôn” anh dận, “ô Tây” anh cầm.” Đi hát mất ô – Trần Tế Xương Hai câu đề mở đầu thi phẩm tuy chỉ gói gọn trong mười bốn chữ nhưng đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp nơi bà Tú với sự chịu thương chịu khó, tần tảo không quản nắng mưa để chu toàn mọi việc trong gia đình. Qua đó, Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình đối với bà Tú, đồng thời cũng phần nào miêu tả sự hổ thẹn của tác giả khi là một đấng nam nhi mà lại không thể làm gì giúp đỡ vợ đến nỗi phải đặt mình trong mối tương quan với “năm đứa con thơ”. Thật xót xa ! Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ vĩ đại của mình, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh “con cò” năm xưa trong ca dao “Con cò lặn lội bờ sông,Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.” Ca dao để cực tả nỗi khổ tâm mà bà Tú đang trải qua trong hai câu thực “Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông.” Tú Xương sử dụng “thân cò” chứ không phải “con cò” như trong ca dao xưa vừa thể hiện được cá tính riêng, sự sáng tạo mang tính chất thời đại trong phong cách thơ ca của thi sĩ, vừa đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và người phụ nữ nói chung với hình ảnh gầy guộc của “con cò” để nói lên sự cơ cực trong cuộc sống của một người phụ nữ trụ cột. Tiếp đó, chữ “thân” tuy đơn giản nhưng nghe sao cay đắng quá, nó luôn gợi cho mọi người về một thứ gì đó nhỏ bé tội nghiệp đến vô cùng. Và khi xưa, nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ngậm ngùi trên trang giấy khi nói đến chữ “thân” bạc mệnh “Thân em vừa trắng lại vừa tròn,Bảy nổi ba chìm với nước non.” Bánh trôi nước “Khi quãng vắng” là một cụm từ rất đặc biệt vì nó không chỉ gợi lên cái không gian rợn ngợp cảm giác đơn lẻ đầy nguy hiểm rình rập nơi bờ sông heo hút, giá lạnh lúc bấy giờ mà còn diễn tả sâu sắc nỗi khắc khoải về thời gian của sự tảo tần và một khi được song hành cùng với biện pháp nghệ thuật đảo ngữ của từ láy “lặn lội”, hình ảnh giản dị, chất phác của người phụ nữ gầy guộc chân trần mưu sinh nơi rừng sông núi bãi vào ban đêm – thời gian mà những người phụ nữ khác đang hạnh phúc bên chồng con, đang tận hưởng những giấc ngủ say, hằng mong có thể kiếm thêm thu nhập để trang trải cuộc sống càng trở nên nổi bật và chói lọi hơn trong khung cảnh hiu quạnh đến ghê sợ nơi doi đất chênh vênh. Nếu như câu thơ thứ ba gợi nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại là sự vật lộn đầy cam go của bà Tú giữa thời buổi mua bán đông đúc “Eo sèo mặt nước buổi đò đông.” Một lần nữa, biện pháp nghệ thuật đảo ngữ lại được sử dụng trong lời thơ của Tú Xương nhưng với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự tấp nập, ồn ào để nhấn mạnh tính chất thường tình nơi chợ búa và sự lam lũ của người phụ nữ “năm con với một chồng”. Mặt khác, hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần mạnh mẽ trong việc xây dựng hình tượng một bà Tú cần mẫn, tất bật và sự đông đúc, xô bồ đó đã từng được ca dao xưa nhắc đến “Con ơi nhớ lấy câu này,Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.” Mặc dù văng vẳng bên tai là lời dạy chân tình của cha ông ta “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng bà Tú vẫn cứ khăng khăng dấn thân vào cuộc chiến tranh âm thầm và dai dẳng của những lần đôi co “eo sèo”, chen chúc, tranh giành khách, phân mua với các gian hàng khác, bất chấp người qua kẻ lại đếm nhiều không xuể khi “đò đông” để bươn chải miếng cơm, manh áo cho chồng, con vì chỉ khi tấp nập như thế, cơ hội kiếm thêm thu nhập sẽ tăng vọt hơn “khi quãng vắng” cho dù phải chịu cảnh đau nhức khi “đầu đội trời, chân đạp đất”, tổn thương về thể xác khi bị dòng người xô ngã. Ôi ! Quả là một người phụ nữ chan hòa tình yêu thương, bà đã đánh đổi cả bản thân mình mà chen lấn bán đi từng món hàng của mình để kiếm từng đồng tiền ít ỏi lo cho cuộc sống gia đình mình, thật đáng khâm phục ! Bằng cách đảo những từ láy hô ứng vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu cảm “lặn lội”, “eo sèo” lên ngay vị trí đầu câu thơ kết hợp với hai hình ảnh đối nhau rất chỉnh “khi quãng vắng” – “buổi đò đông” trong hai câu thực, hình tượng người vợ tháo vát vã mồ hôi chỗ đông đúc vì phải giành giật, trào nước mắt nơi quạnh hiu khi tìm được khách hàng hiện lên với tất cả niềm tự hào của nhà thơ cả về thể chất mạnh mẽ lẫn tinh thần thép của bà Tú dù trong mọi hoàn cảnh khắc khổ nhất. Đến với những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú đang gồng gánh trên vai “Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công.” Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do trời định sẵn, xuất phát từ số phận, từ sợi chỉ hồng của ông Tơ bà Nguyệt “Kiếp người sao mãi long đong,Ông tơ bà Nguyệt chỉ hồng se duyên” Thế nhưng khi đi vào lời thơ của một bậc thức giả dày dặn kinh nghiệm như Tú Xương, định nghĩa đó dường như đã đánh mất đi tính chất quyền quý của mình mà trở nên nặng nề vô cùng như một lời than thở khi “duyên” thì chỉ có một mà “nợ” lại hai “Chồng gì anh, vợ gì tôi,Chẳng qua là cái nợ đời chi đây” Ca dao Bên cạnh đó, cách sử dụng hai thành ngữ xưa song song với nhau “Một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối nhau về từ “một” – “hai”, “năm” – “mười”, vừa đối nhau về ý đã không những khiến cho nhạc thơ bỗng trầm lắng trước nỗi khổ tâm chồng chất ngày một dâng lên theo cấp số nhân của bà Tú mà còn thể hiện rất rõ tài năng văn chương điêu luyện của thi sĩ khi biết vận dụng triệt để giá trị của các thành ngữ cùng các con số mộc mạc để thiêng liêng hóa hình ảnh bà Tú. Có thể nói, dẫu có khó khăn muôn trùng, chông gai trước mắt, “nợ” nghiêng về mình nhưng bà Tú chưa một lần chùn bước mà chỉ gật đầu nhẫn nhục cho qua và ba tiếng đối ứng thượng, hạ “âu đành phận”, “dám quản công” đã thể hiện được điều đó. Nguyên nhân dẫn đến sự cần cù, âm thầm đầy cam chịu của bà Tú tuy giản đơn nhưng cũng rất cao quý đó là vì mối nhân duyên thiên định và vì tương lai của đàn con nhỏ. Quả là một người mẹ, người vợ giàu đức hi sinh ! Từ việc pha trộn lời thơ đan xen những thành ngữ đã đạt đến độ hoàn hảo về nội dung với các phép đảo ngữ cực tinh tế cùng các cấp số nhân rất thực và chuẩn xác, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa thành công tấm chân dung một người vợ kết tinh đầy đủ đức hi sinh, sự nhẫn nại, sự tần tảo chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam truyền thống trong hai câu luận. Qua đó, ông còn ngầm ý bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người vợ thân thương của mình khi bà đã quên đi cái tôi mà gánh vác hết mọi trách nhiệm của một trụ cột trong gia đình. Thật vậy “Có con phải khổ vì con,Có chồng phải gánh giang sơ Kho tàng lục bát dân gian Vì quá thương vợ, quá thương cho phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột, Tú Xương tự trách bản thân mình và thông qua đó cũng nói lên tiếng chửi vừa đắng cay vừa phẫn nộ cho định kiến khắt khe “trọng nam khinh nữ” đã biến ông thành một kẻ vô tích sự “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không.” Mạch cảm xúc của thi phẩm dường như có sự chuyển biến đột ngột khi giờ đây, Tú Xương không còn “ẩn mình” sau những vần thơ để tán dương vợ nữa mà ông đã chịu xuất hiện để nói thay cho sự oán trách chồng, trách phận của bà Tú. “Cha mẹ thói đời” thật là một cách nói có phần thô cứng, xù xì nhưng lại rất phù hợp với phong cách thơ ca trào phúng của thi sĩ. Đó là sự giận đời, hận đời vì cái xã hội “Tây tàu lố lăng” lúc bấy giờ không cho phép ông san sẻ gánh nặng gia đình cùng vợ. Thêm vào đó, ít ai biết được rằng đằng sau tiếng chửi đầy dứt khoát ấy lại là một bi kịch của một con người chất chứa bao niềm phẫn uất, đau xót và tê tái “Có chồng hờ hững cũng như không.” Tú Xương chửi “đời” nhưng cũng “tự chửi” mình, “tự chửi” cái thói sĩ diện của một đấng nam nhi đang trên đường công danh, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự đời, mà không biết được mọi người xung quanh đang khổ cực vì mình. Tú Xương coi mình như kẻ vô tâm, “ăn ở bạc” với vợ con, luôn luôn “hờ hững” trong trách nhiệm và vai trò của một kẻ làm cha, làm chồng. Thật là “có chồng hờ hững cũng như không”! Thế nhưng nếu nhìn nhận lại sự việc một cách lạc quan thì Tú Xương không hề đáng trách mà lại rất đáng thương bởi suy cho cùng, chính xã hội lem luốc kia đã đẩy ông, một tài năng xuất chúng vào bước đường cùng khiến cho người vợ vốn thuộc dòng dõi cao quý phải chịu khổ. Thật đau đớn ! “Con gái nhà dòng lấy chồng kẻ chợTiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ” Văn tế sống vợ – Trần Tế Xương Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mát mình của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với bà Tú là vô bờ bến. Người chồng ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng không hề “ở bạc”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đi của bà trên đường đời và đặc biệt là luôn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với vợ. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ vừa thấm đượm cái bi, cái bất hạnh trong niềm riêng của tác giả, lại vừa dí dỏm, hài hước. Nói tóm lại, sau khi đi sâu phân tích bài thơ Thương vợ ta thấy đây là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình pha chút trào phúng, Tú Xương đã không những khắc họa nên một bức chân dung tuyệt đẹp về người vợ tảo tần, chịu thương chịu khó của mình mà còn thể hiện vẻ đẹp trong nhân cách của bản thân và hình ảnh bà Tú cần mẫn, đầy lo toan đó chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ vừa mộc mạc, chất phác, vừa cứng rắn, mạnh mẽ. Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Hay Nhất Bài văn mẫu phân tích bài thơ thương vợ ngắn hay nhất Trần Tế Xương hay còn có bút danh là Tú Xương, ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm mang chất trào phúng và trữ tình. Ông chỉ sống 37 tuổi và học vị tú tài, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm thơ, văn tế, phú, câu đối. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ tô đọng trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bài thơ được Tú Xương viết như sau “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ, âu đành phận Năm nắng mười mưa, dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc! Có chồng hờ hững cũng như không!” Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục được chia làm bốn phần đề, thực, luận, kết. Mỗi phần hai câu nhằm khắc họa một cách sắc nét hình ảnh bà Tú- vợ Tú Xương, cũng như đang nói lên một phần nào đó hình ảnh người phụ nữ ở xã hội xưa. Trong hai cầu đề Tú Xương đã giới thiệu một cách khái quát về công việc của bà Tú. Đó là sự tần tảo “quanh năm” buôn bán ở mom sông, việc mua bán này không hề có cửa tiệm hay vốn liếng nhiều. Đây là một công việc vất vả, cực nhọc, thu nhập bất ổn sông bà Tú vẫn đang “nuôi đủ” năm con với một chồng mà không một lời oán trách. Trong câu này, tác giả tách mình một bên, con một bên nhằm nhấn mạnh việc, mặc dù ông đỗ tú tài nhưng không được làm quan, phải đặt gánh nặng lên đôi vai của người vợ, người mà ông yêu thương. Câu thơ như là lời trách nặng nề của tác giả đối với chính bản thân mình, Nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được cái tình cảm yêu thương mà Tú Xương dành tặng cho vợ mình. Để diễn tả một cách cụ thể hơn sự vất vả trong công việc của bà Tú, trong hai câu thực tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để biến thành “thân cò” nhằm thể hiện sự lặn lội vất vả của bà Tú trong công việc mưu sinh hàng ngày tại nơi “quãng vắng”. Bên cạnh đó, Tú Xương còn khái quát một cách sinh động cảnh bán buôn ở mom sông của bà Tú qua câu “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Đó là hình ảnh nhốn nháo, tranh chấp mua bán của nhiều con người có công việc như bà Tú. Nhìn chung, cuộc đời bà Tú không ít khó khăn gian khổ. Sự khó nhọc, vất vả của bà Tú không được dừng lại ở hai phần đề và thực mà nó còn tăng lên ở phần luận. Bằng việc sử dụng hai câu thuật ngữ “một duyên, hai nợ” và “năm nắng mười mưa” tác giả đã toát lên sự hi sinh cao cả của bà Tú, đó là việc chấp nhận số phận chăm lo cho chồng con và dù nắng hay mưa cũng không bỏ việc. Ở đây, Tú Xương đã nêu lên đức tính tốt đẹp của bà Tú nói riêng và người phụ nữ nói chung, đó là sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại, sẵn sàng hi sinh vì gia đình. Đồng thời qua đây tác giả cũng bộc lộ nỗi niềm biết ơn và quý trọng đối với bà Tú. Cùng với quý trọng và biết ơn bà Tú ở hai câu luận, thì hai câu kết là một cách nói ngao ngán về nỗi niềm tâm sự của tác giả- Tú Xương. Một lời thở dài về “cái thói đời” ông nhắc đến chính là cái xã hội lúc bấy giờ- một xã hội mang tính nửa tây nửa ta, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng và đạo lí bị suy thoái. Bên cạnh ông tự trách bản thân sao mà “ăn ở bạc” thi cử hoài mà không đỗ đạt, chẳng thể làm quan, không giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải chịu khổ vì mình. Cuối cùng mọi thứ đúc kết trong lời than đầy xót xa của Tú Xương “Có chồng hờ hững cũng như không”. Tóm lại “Thương vợ” là một bài thơ hay mang đậm giá trị cảm xúc của Tú Xương. Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương. Bài thơ lại mang đậm cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc, nói lên tình cảm yêu thương, sự quý trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung và bà Tú nói riêng. Văn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Bài văn mẫu phân tích bài thơ thương vợ được nhiều bạn học sinh tham khảo chia sẽ thêm sau đây Nhắc đến những nhà thơ trào phúng trung đại thì người ta nhớ đến đầu tiên có lẽ là Trần Tế Xương. Quả thật thơ ông mang những nét trào phùng đặc biệt nhất, nó không nhẹ nhàng nhưng thâm thúy sâu cay như Nguyễn Khuyến mà nó sâu cay, cười mỉa mai trước những cái sự đời. Cũng giống như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương cũng có bài thơ tự cười mình, không chỉ cười xã hội mà ông còn cười chính bản thân mình. Và cũng chính vì thế mà Nguyễn Khuyến có bài tự trào thì Trần Tế Xương cũng có bài Thương vợ. Nhan đề bài thơ gợi lên cho ta tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ mình nhưng đồng thời nội dung bài thơ còn thể hiện một tiếng cười về bản thân bất tài vô dụng của Trần Tế Xương. Hai câu thơ mở đầu Trần Tế Xương đã kể lên những nỗi vất vả của người vợ thương yêu của mình. Đó là sự vất vả được hiện lên và mục đích của công việc ấy “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng” Hình ảnh người vợ của Trần Tế Xương hiện lên giống như những người phụ nữ, người mẹ nào trong hình dáng người phụ nữ ngày xưa với cái nghề buôn bán. Chỉ cần có thế mà biết bao nhiêu hình ảnh giản dị hay lam hay làm của người phụ nữ xưa hiện ra. Đó là hình ảnh người phụ nữ áo nâu váy đụp gánh tất cả những hàng hóa trên đôi vai nhỏ bé của mình ra chợ rồi lại từ chợ về nhà. Người vợ của nhà thơ hiện lên cũng với hình ảnh ấy và công việc ấy đặc biệt rằng công việc ấy được diễn ra thường xuyên qua hai từ “quanh năm”. Người phụ nữ ấy làm việc vất vả quanh năm cũng chỉ một công việc đó từ năm này qua năm khác. Thế nhưng địa điểm không phải trên những mặt đất bằng phẳng mà lại ở mom sông gợi sự vất vả, nguy hiểm. Như vậy vợ nhà thơ là một người không những vất vả mà còn phải đối mặt với nguy hiểm. Thế nhưng bà Tú làm như vậy để được gì, không chỉ nuôi bản thân mình mà bà Tú còn phải nuôi đủ “năm con với một chồng”. Ở đây nhà thơ đang tự cười chính bản thân mình. Chồng cũng trở thành một con số đếm ngang hàng với những đứa con trong gánh nặng của người vợ. Không những thế còn là “nuôi đủ” càng chứng tỏ gánh nặng của người vợ kia. Giờ đây quang gánh kia không chỉ đơn giản là những mặt hàng của bà nữa mà trên đó còn có cả năm con với một người chồng. Sang hai câu thơ tiếp theo người chồng gánh nặng kia lại tiếp tục thể hiện lòng thương vợ của mình và những vất vả mà bà Tú phải trải qua hàng ngày “Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông.” Ông chồng người mà được coi là trụ cột của gia đình không chỉ về tinh thần mà còn về kinh tế nhưng giờ đây lại là gánh nặng của vợ mình. Bà Tú phải lặn lội với những nguy hiểm khi đi vào những con đường vắng mà chỉ có một mình. Hình ảnh con cò trong câu ca dao xưa tượng trưng cho người phụ nữ nghèo khổ lại được nhà thơ sử dụng trong bài thơ của mình. Không biết rằng có biết bao nhiêu những khó khăn và nguy hiểm đang rình dập và nuốt lấy vợ mình. Vượt qua những nguy hiểm khó khăn ấy bà Tú vẫn đi đến chợ mom sông trên những buổi đò eo sèo những lời của người mua kẻ bán. Họ đang mặc cả với nhau từng đồng một để lo cho gia đình mình. Và rồi nhà thơ nói đến duyên phận của mình với vợ và như thay vợ nói lên cái thở dài chán nản trước một người chồng mà lại gánh nặng như một người con thứ sáu trong nhà “Một duyên, hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa, dám quản công. ” Người xưa hay có quan niệm về duyên và nợ, hai người lấy nhau thì là có duyên có nợ từ kiếp trước, còn yêu nhau mà không lấy được nhau thì đó là có duyên nhưng không có nợ. Ở đây bà Tú lại có duyên có cả nợ với nhà thơ nên mới chịu cảnh khó khăn khổ cực như thế. Một chữ duyên, hai chữ nợ, thôi thì đành phận với nhau. Nhà thơ lại thể hiện sự vất vả của vợ mình qua “năm nắng, mười mưa”. Câu thơ ấy như gợi lên sự khó nhọc mà trong ca dao cũng nhắc đến như “một nắng hai sương”. Có thể thấy rằng chính cái số đếm cụ thể ấy đã làm nổi bật lên sự khó nhọc của bà Tú. Thế nhưng Bà Tú còn hiện lên đẹp hơn khi không quản công gánh nặng ấy. Bà thương chồng thương con và hi sinh cho chồng con mà không một lời than vãn. Nhưng chính sự không than vãn và đức hi sinh ấy khiến cho nhà thơ không thể nào yên lòng được “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không!” Thương vợ Trần Tế Xương cũng như đang tự cười bản thân mình và hai câu thơ cuối này là tiếng chửi to nhất, sâu cay nhất. Tác giả tự thấy bản thân mình ăn ở bạc không thể giúp đỡ được gì cho người vợ chân yếu tay mềm hơn mình rất nhiều, ngẫm thấy có chồng cũng như không. Phải chăng nhà thơ đang chửi rủa dằn vặt chính bản thân mình vì không thể nào giúp đỡ cho vợ? Qua đây ta thấy nhà thơ Trần Tế Xương thể hiện sự thương vợ sâu sắc. Bài thơ giống như một bức thư, một dòng nhật kí mà nhà thơ muốn gửi đến vợ mình. Đặc biệt bản thân ông ý thức rõ được sự vô dụng của mình mà tự thấy xấu hổ mà tự chửi chính mình. Nói tóm lại dù thế nào đi nữa thì qua đây chúng ta cũng biết được tâm trạng và tình cảm của Trần Tế Xương dành cho vợ mình. Mẫu Phân Tích 4 Câu Đầu Bài Thương Vợ Tiếp theo đây, xin gửi đến bạn đọc bài văn Mẫu Phân Tích 4 Câu Đầu Bài Thương Vợ. Bạn đọc đừng bỏ lỡ nhé. Bài thơ “Thương vợ” gửi gắm tình cảm đó. Trong đó, 4 câu thơ đầu là hình ảnh chân thực về một bà Tú – người mẹ, người vợ khắc khổ nhưng đảm đang, tần tảo, giàu đức hi sinh. Thể hiện điều đó, Tú Xương bắt đầu từ cách giới thiệu công việc của bà Tú “Quanh năm buôn bán ở mom sông” Công việc của bà Tú là buôn bán. Vì miếng cơm manh áo mà phải làm công việc vất vả ấy. Suốt thời gian “quanh năm”, bà Tú làm không ngơi nghỉ. Về không gian làm việc, Tú Xương dùng từ “mom sông”. Nó gợi sự chấp chới, hiểm nghèo. Một câu thơ ngắn nhưng người đọc thấy được cả bức chân dung của người phụ nữ vất vả, nhọc nhằn. Ấy vậy, bà Tú vẫn có thể nuôi sống gia đình “Nuôi đủ năm con với một chồng” Bà Tú “nuôi đủ”, chứ không thừa, không thiếu. Một mình bà Tú gánh trên vai 5 đứa con thơ dại kèm theo “một chồng”. Hơn nữa, từ “với” tạo thế cân bằng giữa “năm con” và “một chồng”. Chính điều này đã ngầm so sánh gánh nặng nuôi chồng còn nặng ngang với cả 5 đứa con. Tới câu thơ tiếp, Tú Xương miêu tả chân dung bà Tú thông qua hành động “Lặn lội thân cò khi quãng vắng” Không phải đột nhiên Tú Xương thay đổi nội dung thơ chuyển tới than thân cò, thân vạc. Tú Xương đang mượn thân cò để điển hình cho hình ảnh bà Tú. Hình ảnh nhân vật chuyển tới không gian của những “quãng vắng”. Nơi mà luôn có những “hố tử thần” sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ ai không may sa chân. Tú Xương đặt động từ “lặn lội” lên đầu câu nhằm nhấn mạnh vào bức chân dung nhân vật. Nó gợi những bước chân bập bõm, lận đận mò mẫm bùn lầy nhờ đó càng cho thấy nỗi vất vả cơ cực của bà Tú. Từ ngày về đêm và cuối cùng trở lại ngày, một vòng tuần hoàn công việc không bao giờ dứt “Eo sèo mặt nước buổi đò đông” Bà Tú hiện lên trong không gian buổi đò đông. Lại tiếp tục là chân dung người phụ nữ phải bon chen, giành giật sự sống với đời. Thêm nữa, láy tượng thanh “eo sèo” bổ nghĩa “mặt nước” khiến người đọc liên tưởng tới không gian mặt nước mênh mông. Ở đâu, nơi nào ta cũng thấy rõ 2 điều, công việc vất vả, hiểm nguy và con người tần tảo. Tóm lại, 4 câu thơ đầu bài “Thương vợ” đã cho thấy nhiều đặc sắc nghệ thuật của Tú Xương. Qua đoạn thơ, Tú Xương không chỉ ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh của bà Tú. Đồng thời còn thể hiện nỗi hổ thẹn của chính tác giả. 💌 Ngoài Mẫu Phân Tích 4 Câu Đầu Bài Thương Vợ. Tiết Lộ Thêm Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử ❤️ 10 Bài Hay Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ 6 Câu Đầu Để các bạn hình dung ra được bài làm đầy đủ hơn với đề bài Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ 6 Câu Đầu. Thì bạn có thể tham khảo ngay bài văn mẫu hay bên dưới nhé. “Thương vợ” của Tú Xương thuộc đề tài nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại. Và đó cũng có thể là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với vợ của mình. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần đề – thực – luận – kết. Phần đầu là hình ảnh của bà Tú dưới cái nhìn của ông Tú. “Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng” Công việc của bà Tú là buôn bán nhưng không phải ở trong chợ mà là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm là quanh năm thời điểm này cho ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp lại. Câu thứ hai khi đọc người đọc có thể cảm nhận phong cách viết thơ tự trào hóm hỉnh của Tú Xương. Ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi đủ con và chồng cả đủ ăn, đủ mặc. Ông còn kể rất tỉ mỉ “năm con”, “một chồng”. Thật đáng cười cho một nhà nho bám vợ như ông “Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông” Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ dùng trong thân cò. Một hình ảnh hay được đùng để ví von với người phụ nữ Việt có số phận cực khổ. Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đảo ngược từ lặn lội đứng trước danh từ chủ thể thân cò kết hợp với cụm từ quãng vắng. Ngoài ra có thể để ý ta sẽ thấy một sự đối lập ở hai câu ba và bốn giữa “lặn lội” và “eo sèo”; “khi quãng vắng” – “buổi đò đông”. Cho thấy nỗi vất vả một mình của bà Tú vừa phải gánh vác. Bốn câu thơ đầu nói nên cuộc sống bấp bênh của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình. Nhà thơ thể hiện sự thán phục hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé, tiếp tục cực tả nỗi vất vả đơn chiếc. Nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, làm khổ vợ con. “Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản công” Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như “một duyên hai nợ” ; “năm nắng mười mưa”. Là những câu chữ nói nên sỗ phận cực khổ của một con người. Thành ngữ ở câu năm phiếm chỉ duyên chỉ có một mà nợ đến những hai. Gánh nặng thì nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ tăng tiến ẩn dụ cho nỗi vất vả nhọc nhằn. Cùng với nghệ thuật đối “năm náng mười mưa” với “dám quản công”. Thể hiện sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Từ những câu thơ trên đã khắc họa thành công Chân dung bà Tú điển hình cho người phụ nữ Viêt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ đến đây không chỉ thương xót, mà còn thương cảm thấm thía. 🌼 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ 6 Câu Đầu. Bật Mí Thêm Bài Ca Xuân 61 Tố Hữu ❤️ Cảm Nhận, Phân Tích Hay Nhất Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Nâng Cao tặng các bạn học sinh tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ thương vợ nâng cao hay dưới đây “Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan làm một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao giờ ngừng sống làm lay chuyển lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian. Nhắc đến Tú Xương ta không thể không nhắc đến “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, trào phúng bản thân và bày tỏ tấm lòng yêu thương, kính trọng của ông đối với người vợ tần tảo hy sinh suốt một đời vì chồng, vì con, vì gia đình. Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào trong thơ ca của ông “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” hoặc “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”. Trong bài “Thương vợ” cũng vẫn là những vấn đề ấy được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú. Một công việc vất vả, cơ cực và gian nan vô cùng “Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồng” Nghề buôn bán theo quan niệm của người xưa là con đường đầu tiên để làm giàu “Phi thương bất phú” nhưng công việc của bà Tú thì lại đối lập hoàn toàn. Chỗ buôn bán ở đây không phải là vùng đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu “là cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”. “Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm buôn bán của bà Tú nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với bao nguy hiểm khi nước xuống thì còn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây là “quanh năm” hết ngày này qua tháng khác. Thời gian đằng đẵng chẳng bao giờ được nghỉ ngơi. Một công việc nhọc nhằn, vất vả mà người vợ phải gánh vác để lo cho gia đình. Trước đây với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” những việc lớn như kinh tế gia đình phải do người đàn ông lo liệu nhưng người gánh vác trách nhiệm ấy ở đây là bà Tú – người đàn bà giàu lòng yêu thương, giàu nghị lực có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ ở đây nuôi cho đủ miếng cơm manh áo. Một người làm mà bảy miệng ăn ta thấy trách nhiệm nặng nề đặt lên đôi vai người phụ nữ gia đình. Trong câu thơ này có sử dụng nghệ thuật đối năm con là số nhiều nhưng lại được đặt ngang hàng để đối với một chồng là số ít. Đủ cơm ăn áo mặc cho năm con ngang bằng với số tiền bạc để nuôi một chồng. Như ta đã biết cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và đơn giản, 37 năm, dường như gói gọn trong ba việc chính đi học, đi thi và làm thơ. 15 tuổi bắt đầu đi thi, 22 năm ròng rã còn lại vẫn đi thi, trải liền tám khóa lều chõng mỗi lần lên kinh dự thi là biết bao chi phí, tiền của do một tay bà Tú trang trải. Khép lại hai câu đề miêu tả không gian, thời gian và công việc của bà Tú đến hai câu thực mở ra một hình ảnh “thân cò” “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo nước mặt buổi đò đông” Câu thơ gợi cho ta nhớ đến hình ảnh quen thuộc trong ca dao “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần tảo sớm hôm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho hình ảnh ấy càng trở nên cụ thể, sâu sắc hơn. Chắc hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì miếng cơm manh áo gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn hiểm nguy để rồi phải “eo sèo” nơi “đò đông”. Hai tính từ ở đầu câu và cuối câu đối nhau vừa có tính gợi hình lại gợi cảm. Dường như nhà thơ đang rất cảm thông và thương xót cho thân phận của vợ mình mà như nhỏ lệ trước hình ảnh ấy. Hai câu thơ có thể được coi là hay nhất trong bài cũng như khiến cho con người ta rung động nhất khi tái hiện về hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương. Nếu như ở bốn câu thơ đầu tác giả giữ vị trí, đóng vai trò là người chồng đứng ở bên ngoài “khách quan” để quan sát, nhận xét và cảm thông cho bà Tú thì bốn câu thơ sau Tú Xương nhập thân vào trong tâm tư, nỗi niềm của người vợ để cất lên tiếng than “chủ quan” và chân thực hơn. Hai câu luận là lời than thở mà Tú Xương nói hộ lòng vợ “Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công” Chữ “duyên” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là duyên cớ làm phát sinh việc gì đó. Duyên theo quan niệm của Phật giáo là phần trời định cho con người gặp gỡ, có khả năng yêu nhau và trở thành vợ chồng, giúp các cặp đôi yêu thương gắn kết trong cuộc đời. “Tu trăm năm mới thành bạn đồng hành, tu ngàn năm mới được chung chăn gối” dân gian tạo thành một cặp duyên và nợ. Dưới cái nhìn của Tú Xương duyên thì chỉ có một mà nợ thì hai, duyên ít nợ nhiều. Ngẫm cho kĩ bà Tú lấy được ông Tú cũng là một cái duyên nhưng với người chồng “hờ hững” ấy thì nợ lại nhiều hơn. Chính vì điều đó đã khiến cho sự vất vả cực nhọc của một thân phận được nâng lên thành định mệnh của cả một kiếp người. Vì là duyên là nợ nên “âu đành phận”. Âu có nghĩa là cam chịu, đành là chấp nhận. Vì là cam chịu và chấp nhận điều đó nên “năm nắng mười mưa dám quản công”. Các số từ theo thứ tự một, hai, năm, mười được sắp xếp theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất khó khăn trên đôi vai của bà Tú. “Âu đành phận” và “dám quản công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ cho thấy cách ứng xử của người làm vợ luôn nhẫn nhục, chịu đựng tất cả vì chồng con. Khép lại bài thơ hai câu kết được nâng lên thành tiếng chửi. Thác ra giọng bà Tú, Tú Xương đã chửi rủa cái bạc bẽo của cha mẹ nhà chồng và vô tích sự của bản thân đối với vợ. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không” Những bà mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu, vì quan niệm phong kiến hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người làm không công mà đối xử tệ bạc với con dâu. Ta đã từng bắt gặp tiếng chửi ấy nhẹ nhàng mà thâm thúy trong ca dao như “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền/ Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi” hay “Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau”. Tú Xương không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ ông không chỉ là tiếng chửi bọn quan lại phong kiến dốt nát mà còn là những vần thơ tự trào bản thân. Trong câu thơ trên nhà thơ mượn lời vợ mình để chửi chính bản thân mình là một người chồng “hờ hững”, vô tích sự không gánh đỡ gì được cho vợ mà ngược lại còn làm nặng trĩu thêm cái gánh nợ đời trên đôi vai của bậc hiền phụ. Nhà thơ coi mình là kẻ chẳng ra gì cũng là một cách để ca ngợi, đề cao vợ theo cái cách chưa từng thấy trong thơ văn trung đại “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”. Cái đặc sắc của hai câu kết tuy là tiếng chửi nhưng vẫn mang hàm ý đùa vui, tự cười, tự trách mình nhưng vẫn là để bày tỏ sự cảm thông với vợ. Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng cho nền văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX, hai nhà thơ tiêu biểu và đặc sắc cho những vần thơ tự trào. Thơ ông với những cách tân mới mẻ về ngôn ngữ viết theo xu hướng khẩu ngữ hóa, sử dụng ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo âm điệu trữ tình và có sức gợi hình, gợi cảm. “Thương vợ” là một bài thơ hay có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian với ngôn ngữ bác học một cách tinh xảo, phong phú khắc họa được chân dung bà Tú và bộ lộ được tâm trạng, tình cảm của Tú xương dành cho vợ của mình. Cùng với đó là cách ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 càng làm cho bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển. Bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm chân thành của nhà thơ đối với hiền phụ của mình. Trước Tú Xương hiếm có thi nhân nào mà có những bài thơ viết về vợ hay và lắng đọng, sâu sắc như ông. Bài thơ không chỉ cho thấy một tâm hồn cởi mở, đôn hậu của nhà thơ đối với vợ mà còn chứng tỏ tài năng, thi bút của một thi sĩ biết vận dụng và sáng tạo ngôn ngữ dân gian. 🍃 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ. Gợi Ý Cho Bạn Thơ Tình Hàn Mạc Tử ❤️️ Chùm Thơ Về Tình Yêu Hay Nhất Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương Với những gợi ý để phân tích bài thơ thương vợ của Trần Tế Xương. Hi vọng rằng các bạn học sinh sẽ có thể làm tốt bài viết tốt. gửi thêm đến bạn bài văn mẫu phân tích Về Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương. Trong lịch sử văn học nước ta xưa nay, thơ viết về vợ vốn không nhiều. Do đó, thơ hay nghĩa là viết chân thật, sâu sắc và xúc động về đề tài này lại càng hiếm hoi. Vì vậy có thể xem Trần Tế Xương là một trường hợp đặc biệt. Trong thơ mình, ông nói đến vợ rất nhiều lần. Thương vợ là một bài thơ trữ tình – trào phúng đậm sắc dân gian đầy cảm động. Để bộc lộ lòng thương quý, biết ơn và trân trọng vợ mình, nhà thơ đã cực tả nỗi nhọc nhằn lao khổ của bà. Qua đây, ông ca ngợi đức tính đảm đang, lòng hi sinh thầm lặng cao cả một bậc hiền phụ. Trong hai câu thơ đầu, Tú Xương đã nói về sự vất vả và nhẫn nại của vợ mình một cách tự nhiên, thân mật, dí dỏm và hóm hỉnh. Ông vừa giới thiệu cái gánh nặng chồng con trên vai bà vừa cho thấy một cách gián tiếp tình cảm sâu nặng của mình dành cho vợ Hai câu thơ là một lời chấm công. Trong câu thơ đầu, bản thân công việc buôn bán tuy chưa đủ thể hiện được sự vất vả hay nhẫn nại nhưng hoàn cảnh thời gian quanh năm và hoàn cảnh không gian ở mom sông thì lại nói khá rõ về điều đó. Vì sao bà phải vất vả đến như vậy? Câu thơ thứ hai đã trả lời rõ Nuôi đủ năm con với một chồng. Nhà thơ đã nâng cao vợ mình lên hàng trụ cột của gia đình. Cả một gánh nặng sinh kế đã đặt lên vai người phụ nữ. Bà quanh năm khó nhọc, vất vả, bất kế nguy hiểm, gian nan là để nuôi đủ năm con và một chồng nghĩa là sáu miệng ăn hết thảy chưa kể cả chính mình. Nhưng đồng thời ông cũng đã tự hạ mình xuống thành ngang hàng với lũ con. Tiếp theo là hai câu thực nhà thơ đã thể hiện tình thương vợ của mình bằng cách miêu tả cái vất vả, gian nan mà cũng là cái đảm đang của bà Tú Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông Mượn hình ảnh cô đơn, vất vả của con cò trong ca dao xưa con cò lặn lội bờ sông… Ông trau chuốt thêm bằng bàn tay nghệ sĩ tài hoa của mình. Nếu ca dao thường dùng hình ảnh con cò để so sánh, ví von gián tiếp về người phụ nữ tảo tần. Thì ở đây Tú Xương đã đồng nhất trực tiếp thân cò với thân phận người vợ. Câu thơ tiếp theo nói thêm sự vật lộn với sinh kế của bà Tú. Gặp phải buổi đò đông bà đều phải chịu cảnh bị xô đẩy, tranh giành nhau lời qua tiếng lại eo sèo để mặc cả mua bán như ai. Câu thơ này tuy không trực tiếp trích lời ca dao. Nhưng vẫn đâu đây thấp thoáng ý tình. Con đi mẹ dặn lời này, Sông sâu chớ lội, đò đầy khoan sang. Chỉ với hai câu thơ bằng những từ ngữ gợi tả và cảm động. Tú Xương làm hiện lên rõ nét hình ảnh một người vợ thui thủi làm ăn. Một mình toan lo lặn lội trong những khung cảnh không gian và hoàn cảnh thời gian vất vả. Nếu bốn câu thơ đầu vừa phân tích hoàn toàn là lời ông Tú nói về vợ mình. Thì bốn câu sau lại thể hiện giọng bà Tú tự than thân, trách phận chính mình. Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản công Tiền bạc phó cho con mụ kiếm; Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ… thì đúng là một thứ nợ đời. Duyên thì ít mà nợ thì nhiều là như vậy. Một câu thơ mà những hai lần cam chịu. Vì cam chịu nên Năm nắng mười mưa dám quản công là vậy. Cho dầu nắng mưa đến mấy bà vẫn không chút e ngại, chẳng tiếc chi công sức của mình. Sau cùng, hai câu kết của bài thơ là một lời chửi rủa Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không! Thác lời của bà Tú, nhà thơ đã chửi rủa chính cái bạc bẽo và cái vô tích sự của người chồng nghĩa là của chính mình. Tất cả nỗi thương vợ cùng với sự bất lực giận mình. Giận đời đã lắng đọng trong tiếng chửi rủa đầy day dứt, xót xa kia. Như vậy Thương vợ đúng là một bài thơ hay cho ta hình dung được nỗi lòng thương yêu mênh mông chân thành và sâu sắc của nhà thơ đôi với người vợ chịu thương, chịu khó, hi sinh lặng thầm vì gánh nặng chồng con. 🌼 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Trần Tế Xương. Chia Sẻ Thêm Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ ❤️ Mẫu Dàn Ý Phân Tích Chuẩn Nhất Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Mở Bài Còn đây, xin tổng hợp đến bạn đọc những mẫu Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Mở Bài hay nhất ngay bên dưới nhé. Mẫu 1 Nói về tình nghĩa vợ chồng không thể không nhắc đến tác phẩm Thương vợ của Trần Tế Xương. Đúng là Tú Xương đã ý thức được sâu sắc cái vô tích sự của mình đã đem đến cho vợ nên mới có lời “tự chửi” như thế. Nhưng một người chồng mà dám viết và đã viết ra một lời như vậy. Thì hẳn là phải ăn năn nhiều về mình và thương quý, nể trọng vợ biết bao nhiêu. Chỉ có điều, ông không làm gì, không có cách gì để giúp cho vợ. Đó chính là “cái bi kịch” gia đình đã thành nỗi niềm Thương vợ của ông trong bài thơ này. Mẫu 2 Nhà văn Trần Tế Xương là một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm nói về lòng thương. Cũng như Nguyễn Khuyến, Tú Xương có công phát triển tiếng Việt văn học, Việt hóa thể thơ Đường luật thêm một bước dài, góp phần đổi mới nghệ thuật dân tộc. Ông để lại hơn 100 bài thơ đều bằng tiếng Việt. Thương vợ được viết khoảng 1896 – 1897. Tác phẩm giới thiệu hoàn cảnh kiếm sống lam lũ, vất vả của bà Tú. Mẫu 3 Nói đến thơ trào phúng không ai có thế quên Trần Tế Xương, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành. “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo. Mẫu 4 Trần Tế Xương bút danh là Tú Xương là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình trong tiếng cười có nước mắt. Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương đôi khi được tách ra thành những bài thơ trữ tình thuần khiết, thấm thía. Hai kiệt tác “Sông Lấp” và “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương. Mẫu 5 Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn trào phúng và trữ tình. Có bài hoàn toàn là đả kích, châm biếm, có bài thuần là trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối ngăn cách. Thường là châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. Ngược lại, trữ tình thấm thìa cũng pha chút cười cợt theo thói quen trào phúng. Thương vợ là một bài thơ như vậy. 🌼 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Mở Bài. Chia Sẻ Thêm Bài Thơ Bác Ơi Tố Hữu ❤️️ Nội Dung, Phân Tích Cảm Nhận Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Lớp 11 Kết Bài Tổng hợp những kết bài về bài thơ Thương vợ hay nhất để giúp bạn viết đoạn kết bài phân tích Thương vợ một cách cô đọng nhất. Khám phá ngay bạn nhé. Kết bài 1 Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ngôn ngữ thơ bình dị như là tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách đây một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể bà Tú với “năm con, một chồng” vừa khái quát sâu sắc người phụ nữ ngày xưa. Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ’” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp. Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Kết bài 2 Tóm lại “Thương vợ” là một bài thơ hay mang đậm giá trị cảm xúc của Tú Xương. Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương. Bài thơ lại mang đậm cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc. Nói lên tình cảm yêu thương, sự quý trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung và bà Tú nói riêng. Kết bài 3 Với dung lượng của một bài thơ ngắn nhưng Tú Xương đã đem đến những nét vẽ đầy đủ và trọn vẹn nhất về vẻ đẹp nhân cách, phẩm chất hi sinh cao quý của bà Tú đối với gia đình. Đồng thời đây cũng là những lời thơ tự trào phúng về sự bất lực của bản thân. Ngoài ra, bài thơ cũng là sự thành công trên nhiều phương diện ngôn ngữ, hình ảnh, kết hợp giữa chất trào phúng và trữ tình. Kết bài 4 Cả bài thơ cô đúc lại ở ý này ở câu đề, ông chồng có mặt với tư cách là một miệng ăn phải nuôi, ở câu thực, câu luận, ông chồng vắng bóng. Bài thơ chấm dứt bằng sự day dứt, ân hận trong câu kết Có chồng hờ hững cũng như không, càng làm tăng thêm nỗi thương vợ của nhà thơ. Đó là cách nói của Tú Xương, đã nói gì là nói ráo riết đến tận cùng. Tuy nhiên, có điều này ông đã nói oan cho mình đó là hai chữ hờ hững. Vì giận mình mà ông nói thế thôi, chứ thực lòng ông đâu có hờ hững với bà. Bởi nếu ông hờ hững thì đã không có bài Thương vợ thấm thía và cảm động đến như vậy. Kết bài 5 Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động. Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa. Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú dành cho bà Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mà xét thì ông Tú cũng xứng với bà Tú. Vì trên đất nước gian lao và vất vả này có hàng triệu người như bà Tú, nhưng chỉ có một bà Tú là được vào cõi thơ, cõi bất tử! 🍁 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Lớp 11 Kết Bài. Bỏ Túi Thêm Thơ Hồ Dzếnh ❤️ Tuyển Tập Những Bài Thơ Hay Nhất
Đề bài Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ Bạn đang xem Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ 3 bài mẫu Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ 1. Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ, mẫu 12. Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ, mẫu 23. Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ, mẫu 3 1. Mở bài – Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi– Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú 2. Thân bài a. Hai câu đề– Hoàn cảnh bà Tú mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”+ Thời gian “quanh năm” làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác+ Địa điểm “mom sông”phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định – Lí do+ “nuôi” chăm sóc hoàn toàn+ “đủ năm con với một chồng” một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư.⇒ Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh éo le trái ngang+ Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con. b. Hai câu thực– Lặn lội thân cò khi quãng vắng có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn nhiều cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò+ “Lặn lội” Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng+ Hình ảnh “thân cò” gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát+ “khi quãng vắng” thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ – “Eo sèo… buổi đò đông” gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc+ Buổi đò đông Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cranh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu– Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú. c. Hai câu luận– “Một duyên hai nợ” ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu– “nắng mưa” chỉ vất vả– “năm”, “mười” số từ phiếm chỉ số nhiều– “dám quản công” Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú d. Hai câu kết-Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả– Tự ý thức+ “Có chồng hờ hững” Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời– Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.→ Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc. 3. Kết bài – Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung của tác phẩm– Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xẫ hội hôm nay 2. Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ, mẫu 2 1. Mở bài – Thương vợ được viết khoảng năm 1896 – 1897. Bà Tú tên Phạm Thị Mẫn, là người vợ hiền thục đảm đang, tần tảo lo cho chồng con, nên tác giá rất quý trọng và có viết một số bài thơ về bà. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người bà Tú hiện ra phía trước, ỏng Tú khuất ở phía sau, nhìn kĩ mới nhận ra và hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Đặc biệt, bài Thương vợ thể hiện lòng thương quý và biết ơn người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh cho chồng con. 2. Thân bài a. Việc mưu sinh vất cả của bà Tú– Việc mưu sinh vất vả của bà Tú được diễn ta trong bốn câu đầu.– Thời gian quanh năm, công việc buôn bán, không gian ở mom sông quanh năm bà Tú miệt mài buôn bán vất vả ở mom sông, lo liệu việc mưu sinh cho cả nhà và nuôi lũ con năm con, lại nuôi luôn cá chồng với một chồng. Lối nói úp mở vừa hóm hỉnh trong hai câu 1, 2 vừa nhấn mạnh lòng biết ơn pha lẫn sự ăn năn và tỏ ý thương quý bà Tú.– Câu 3 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, có sử dụng biện pháp đảo ngữ lặn lội thân cò để diễn tả việc buôn bán vất vả của bà Tú, lặn lội cả những nơi vắng vẻ, nguy hiểm nơi quãng vắng. Câu 4 tả cảnh bà Tú phải chen chúc trên mặt nước vào những buổi đò đông, eo sèo mua bán thật tất bật, nhọc nhằn. b. Vẻ đẹp của bà Tú– Bà Tú là ngươi đảm dang, tháo vát, chu đáo với chồng con Nuôi đủ năm con với một chồng. – Trong hai câu 5 và 6, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự quên mình của vợ Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công. – Duyên một mà nợ hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng con.– Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo “năm nắng mười mưa”, vừa nói lên sự vất vả gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. c. Thói đời ăn ở bạc Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không. – Trong hai câu 7, 8, giọng thơ như nguyền rủa thói ăn ở bạc bẽo của chính nhà thơ. Nhìn bề ngoài, quả thật ông chẳng những không chia sẻ với nỗi cực nhọc trong việc mưu sinh của gia đình, lại trở thành gánh nặng cho bà Tú, nên có cũng như không. Có vẻ như ông hờ hững, bạc bẽo đối với sự thật đáng chê trách.– Lởi chửi trong hai câu kết là lời Tú Xương rủa mát mình nhưng lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ông chửi “thói đời” bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân xâu xa khiến bà Tú phải khổ. Từ hoàn cảnh riêng, tác giả lên án thói đời bạc bẽo nói chung. 3. Kết bài Xã hội xưa “trọng nam khinh nữ”, coi người phụ nữ là thân phận phụ thuộc. Một nhà nho như Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế là một nhân cách đẹp. 3. Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ, mẫu 3 1. Mở bài Giới thiệu bài thơ Thương vợ– Ví dụ– Cuộc sống vợ chồng là một cuộc sống đầy khó khăn nhưng cũng rất hạnh phúc nếu vợ chồng biết chia sẻ những công việc và khó khăn với nhau. Một trong những tác phẩm tác giả thể hiện tình acmr của mình đối với những khó khăn của vợ là tác phẩm thương vợ của Tú Xương. Tú Xương là một người tài giỏi nhưng thì hoài không đổ đạt, cuộc sống của ông và các con để do vợ ông tần tảo tạo nên. Để thể hiện sự khâm phục và biết ơn của mình ông đã sáng tác nên bài Thương vợ. 2. Thân bài a. Hai câu đề “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng”– Miêu tả công việc của Tú Bà, quanh năm, buôn bán, mon sông một công việc mệt nhọc, siêng năng và rất nguy hiểm– Công việc làm tiên tục không nghỉ ngơi tại một nơi rất nguy hiểm– Đã thế còn nuôi 5 con với chồng sự tháo vác và khổ nhọc của Tú bà b. Hai cậu thực “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông”– Dùng hình ảnh thân cò để nói lên hình ảnh người phụ nữ nhỏ bé– Hai câu thơ còn thể hiện sự nguy hiểm của công việc mà Tú bà làm– Nỗi gian truân, khổ cực của Tú bà– Thể hiện tình cảm của tác giả đối với vợ c. Hai câu luận “Một duyên hai nợ âu cũng đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công”– Tác giả thể hiện tình cảm với vợ, sự khổ cực bao nhiêu thì tác giả phải cố gắng gấp nhiều lần hơn nữa– Sự hi sinh, nhẫn nhịn thầm lặng của tú bà– Tác giả thể hiện chung dung người phụ nữ Việt Nam d. Hai câu kết “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không”– Tác giả tự nhận xét mình– Thể hiện sự bất công của xã hội đã khiến ông không thể gánh vác cùng vợ d. Kết bài Nêu cảm nhận của em về bài Thương vợ – Ví dụ– Tú bà là hiện thân của hình tượng người phụ nữ Việt Nam, một con người chịu thương chịu khó và yêu chồng con hết mực. qua đó còn thể hiện những khó khăn và tủi nhục của những người phụ nữ xưa. ——————HẾT—————– Trong chương trình học Ngữ Văn lớp 11 phần bài Thương vợ – Trần Tế Xương là một nội dung quan trọng các em cần chú ý Soạn bài Thương vợ đầy đủ. Ngoài ra, Phân tích bài thơ Thương vợ là một nội dung mà các em cần phải đặc biệt lưu tâm. Đăng bởi THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo Dục
Với mong muốn hỗ trợ các bạn học sinh làm bài văn phân tích tốt nhất, luôn cố gắng mang tới cho các bạn những dàn ý xuất sắc nhất. Và dưới đây là dàn ý phân tích Thương vợ đầy đủ nhất, các bạn hãy tham khảo nhé! Mở bài chi tiết dàn ý phân tích Thương vợThân bài chi tiết dàn ý phân tích Thương vợKết bàiKhi lập dàn ý phân tích Thương Vợ, các bạn nhất thiết phải giới thiệu qua về tác phẩm và tác giả. Nhà thơ Tú Xương không chỉ nổi tiếng với những áng thơ trào phúng, châm biếm đả kích sâu cay và chế độ xã hội phong kiến đương thời, ông còn là nhà thơ trữ tình xuất sắc. Trong đó tác phẩm “Thương vợ” là bài cảm động nhất. Bài thơ như là lời tâm sự riêng tư vừa là bàn chính sự thời cuộc. Tác phẩm chứa chan tình yêu của nhà thơ dành cho vợ và cả nỗi niềm cho chí làm trai Toàn bộ nội dung bài thơ “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không”. Mở bài chi tiết dàn ý phân tích Thương vợ – Trong phần mở bài chi tiết dàn ý phân tích Thương vợ, các bạn giới thiệu khái quát về tác giả Trần Tế Xương. Theo đó, ông sinh ra trong một gia đình thẹo Nho giáo. Ông nổi tiếng với các bài thơ trào phúng, châm biếm. Cả đời ông dành cho việc thi tú tài mà không đậu. Thế nên, trong thơ trữ tình của ông luôn thấm đượm nỗi buồn phiền cá nhân và thế sự. – Nhắc tới Tú Xương là nói Thương vợ. Đây là bài thơ chân thật nhất, cảm động nhất mà Tú Xương viết về. Xưa nay, hình ảnh người vợ được đưa vào thơ rất hiếm. Nếu có thì cũng chỉ khi người ta đã qua đời. Nhưng Tú Xương khác, ông đã bù đắp lại nổi khổ mà ông gây ra cho bà bằng cánh biến bà trở thành nhân vật trong tác phẩm. Trong tuyển tập thơ Tú Xương, có khá nhiều tác phẩm lấy cảm hứng từ người vợ. Và tác phẩm “Thương vợ” là xuất sắc hơn cả. Thân bài chi tiết dàn ý phân tích Thương vợ Luận điểm 1 Chân dung bà Tú “Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng – Ngay hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã vẽ nên bức chân dung bà Tú với công việc mưu sinh vô cùng vất vả “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng” – Hai câu thơ này còn thể hiện rõ hoành cảnh sống của bà đó là gánh nặng gia đình khi phải nuôi 5 con và 1 chồng. Ở đây tác giả dùng từ “nuôi”, có nghĩa cả nhà 7 ăn thì đều một tay bài lo liệu. Việc người đàn bà nuôi con là bình thường, nhưng éo le thay, bà Tú còn phải nuôi cả ông Tú. – Bà không phải buôn bán theo phiên mà là thời gian quanh năm, từ ngày này sang ngày khác. – Địa điểm hành nghề không phải nơi thiên đời địa lợi mà ở mom sông. Một phần đất nhô ra ở phía lòng sông mang tính không ổn đỉnh, dễ bị sạt lở, cuốn trôi, nguy hiểm. – Qua câu thơ, độc giả thấy được nghệ thuật dùng từ độc đáo của Tú Xương. Ông đặt hai ý “một chồng” ngang bằng với “năm con” và cách ngắt nhịp 4/3. Điều này thể hiện sự cực khổ đến tận cùng của bà Tú. Đồng thời, tác giả đang ví mình như con của bà Tú. Từ đó thấy được dù vất vả nhưng hình ảnh bà Tú hiện ra là một người hiền thảo, chu đáo chăm lo cho chồng con không một lời kêu thán. Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông – Tiếp tục phần dàn ý phân tích Thương vợ là hai câu thơ thực “Lặn lội thân cò nơi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông” – Trong hai câu thơ này ta bắt gặp ý từ trong câu ca dao “Con cò lặn lội bờ sông”. Nhưng Tú Xương đã biến tấu, sáng tạo hơn, nhấn mạnh hơn khi đảo tính từ “lặn lội” lên đầu cầu. Sự xuất hiện của từ láy này càng tăng thêm sự cực nhọc, lam lũ và lo âu của bà Tú. -Việc sự dụng hình ảnh nhân hóa “thân cò” ở đây rất hiệu quả. Chỉ cần nói đến cò thôi, người ta đã nhìn ra ngay một dáng vẻ gầy guộc, xác xơ, đơn côi khi tìm kiếm thức ăn. Điều đó, phần nào lột tả nỗi đau thân phận của bà Tú. – Nếu như hai câu đầu giới thiệu về việc làm và nguyên do bà Tú phải lam lũ thì đến hai câu thơ này, tác giả đã mêu tả chi tiết hơn công việc của bà Tú. Đó là bà Tú có lúc phải lặn lội nơi quãng vắng, nơi heo hút, đầy hiểm nguy. Có lúc bà lại phải dân thân mình vào những cuộc giành giật buôn bán, chen lấn xô đẩy đầy thị phi, bất trắc. – Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để nhất mạnh nỗi gian truân, vất vả của vợ. Ông kết hợp phép đối. lối đảo ngữ, ẩn dụ, hoán dụ để tăng thêm sự khổ cực của bà đồng thời qua đó, thể hiện lòng xót thương vô hạn của tác giả với vợ. Luận điểm 2 Nhân phẩm cao đẹp của bà Tú Một duyên hai nợ, âu đành phận, Năm nắng, mười mưa dám quản công. -Dù vất vả là thế nhưng bà Tú vẫn hết mực chăm lo cho gia đình – Bà Tú nhận thức được việc lấy chồng là cái duyên nợ nên bà “âu đành phận”. Bà hết lòng yêu thương, lo toan cho chồng con mà không một lời ca thán. Câu thơ cũng cho thấy Tú Xương tự nhận mình là món nợ của bà Tú. Tứ thơ “dám quản công” ở đây thể hiện đức hy sinh thầm lặng đáng trân trọng vì gia đình, vì chồng, vì con của bà Tú. Hình ảnh bà hiện lên thật tảo tần, đảm đang và kiên nhẫn. Thể hiện sự vẻ đẹp của người phụ nữ khi lao động. – Hai câu thơ bình luận về phẩm hạnh của bà Tú vô cùng sâu sắc. Với việc vận dụng thành ngữ, từ phiếm chỉ, nhà thơ vừa có thể nhấn mạnh sự gian lao của vợ, vừa ngợi ca đức tính chịu khó, chịu thương của bà Tú. Luận điểm 3 Nỗi lòng của người chồng Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không”. – Khi lập dàn ý phân tích Thương vợ, tới đây ta chợt nhận ra, người chồng ấy không chỉ tôn vinh vợ mà còn kết hợp tố cáo xã hội bất công “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không” –Có thể thấy, nhà thơ đang bất mãn trước hiện thực thối nát của xã hội. Bản thân ông cũng nhận ra, người phụ nữ trong chế độ cũ thật thiệt thòi. Xã hội đã bó buộc họ trong một thân phận để rồi phải chịu nhiều cay đắng. – Tác giả không chỉ lên án xã hội mà còn tự trách chính mình. Ông nhận ra mình chưa làm tròn trọng trách người chồng. Ông ăn bám vợ. Ông lấy vợ không nuôi vợ mà còn bắt vợ nuôi. Ông thực sự cảm thấy vừa đau đớn vừa vô cùng nhục nhã. Ông nhận ra khuyết điểm của bản thân và tự nhủ mình như đã chết khi phải hoàn toàn phụ thuộc vào vợ. Kết bài – Đến phần kết của dàn ý phân tích Thương vợ, các bạn cần chú ý khẳng định lại giá trị về nội dung và cả nghệ thuật của tác phẩm. Nội dung ở đây là đức tính phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam, luôn chịu thương chịu khó chăm lo cho gia đình. Đồng thời là phê phán xã hội bất công. – Xã hội ngày xưa luôn “trọng nam khinh nữ”.Xã hội ấy coi người phụ nữ là phận đèo bòng. Do đó, khi nhà thơ Tú Xương là một nam nhi, đã dám nhận lỗi về mình nhận khiếm khuyết của bản thân trước vợ, thì đó là lối suy nghĩ cực kỳ tân tiến. Dù rằng ông không thể làm gì thay đổi được xã hội nhưng ít ra tác giả đã tôn vinh nhân cách cao đẹp của vợ. – Nghệ thuật ở đây là cách vận dụng những ca dao, thanh ngữ giàu hình ảnh và ý nghĩa sâu xa. – Qua đó, có thể liên hệ bày tỏ thái độ, quan điểm của bản thân về người phụ nữ trong xã hội ngày nay.
Thương Vợ là bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Tú Xương, bài thơ được đánh giá cao trong hơn 100 tác phẩm đồ sộ của ông. Với sự kết hợp hài hòa giữa ngôn từ dân gian và ngôn ngữ bác học, bài thơ khắc họa hình tương nhân vật một cách đặc sắc. Bài viết dưới đây, VerbaLearn giúp độc giả tìm hiểu dàn bài phân tích cũng như những bài văn mẫu chọn lọc cho đề bài phân tích bài thơ Thương Vợ. Từ đó giúp các bạn học sinh có thêm thông tin và dữ liệu cần thiết theo chương trình văn học lớp bài phân tích Thương VợPhân tích bài thơ Thương Vợ – Mẫu 1Phân tích bài thơ Thương Vợ – Mẫu 2Mở bàiGiới thiệu bài thơ Thương vợ của nhà thơ Tú bài1. Hai câu đề– Hoàn cảnh bà Tú mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”.+ Thời gian “quanh năm” nhấn mạnh tính liên tục của công việc, không trừ ngày nào, dù mưa hay nắng.+ Địa điểm “mom sông” phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.+ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định.– Lí do+ “Nuôi đủ năm con với một chồng” một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư.+ Câu thơ với những từ chỉ số lượng “năm con” đặt cạnh “một chồng” mang hàm nghĩa so sánh tương đương. “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng lại còn thêm “một” ông chồng chi phí bằng cả năm đứa con kia.⇒ Tác giả cười nhẹ về sự vô dụng của mình, đồng thời tác giả cũng bày tỏ sự trân trọng đối với vợ mình – người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng Hai câu thực– Lặn lội thân cò khi quãng vắng có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn nhiều cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò+ Hình ảnh “thân cò” gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tính khái quát.+ “khi quãng vắng” thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu.→ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ.– “Eo sèo… buổi đò đông” gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc– Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.⇒ Hai câu thực đối lập nhau về từ ngữ nhưng lại cùng nhau làm nổi bật lên ý nghĩa của sự vất vả, gian truân của bà Hai câu luận– “Một duyên hai nợ” ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu.– “nắng mưa” chỉ vất vả– “năm”, “mười” số từ phiếm chỉ số nhiều– “dám quản công” Đức hi sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Hai câu kết– Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả.– Tự ý thức “Có chồng hờ hững” Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời.⇒ Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương ngụ ý lên án xã hội một cách nhẹ nhàng mà thâm bài– Khái quát về giá trị của tác phẩm.– Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm tích bài thơ Thương Vợ – Mẫu 1Lễ giáo phong kiến với quan niệm “xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử” không tôn trọng người phụ nữ. Ngoài ra nó còn không đánh giá cao vai trò của cá nhân. Vì thế gần như không có nhà thơ, nhà văn nào thời phong kiến làm thơ về vợ mình. Bạn có biết bài thơ nào mà ở đó tác giả không những đề cập đến người vợ mà còn đánh giá cao họ trong thời thực dân phong kiến không? Đó là bài thơ “Thương vợ” của nhà thơ Tú Xương – môt trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của nhà thơ viết về bà Tú.“Quanh năm buôn bán ở mom sôngNuôi đủ năm con với một chồngLặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đôngMột duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản côngCha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không”Cảm nhận ban đầu của người đọc đối với bài thơ là sự thương yêu, trân trọng của Tú Xương đối với vợ mình – người phụ nữ vất vả, tảo tần để chăm lo cho chồng con, gồng gánh gia đình“Quanh năm buôn bán ở mom sông”Câu đề của bài thơ nhằm khắc họa dáng vẻ tần tảo, tất bật ngược xuôi của bà Tú. Thời gian “quanh năm” nhằm nhấn mạnh tính liên tục của công việc, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng, nhấn mạnh sự tần tảo của bà. Nhưng bà Tú làm việc ở đâu, một cửa hiệu nhỏ hay một cửa hàng sang trọng? Không đâu, chỗ mà bà “kinh doanh” là ở “mom sông”, phần đất nhô ra phía lòng sông, một địa điểm có phần cheo leo, nguy hiểm. Qua hai câu mở đầu, tác giả đã giúp ta hiểu được phần nào khó khăn, khắc nghiệt về cả thời gian lẫn không gian trong công việc của bà. Độc giả khi đọc đến đây sẽ nghĩ bà Tú làm việc gì lớn lao lắm. Không, bà Tú làm việc cực nhọc quanh năm chỉ đểNuôi đủ năm con với một chồng”!Ta như cảm nhận được tiếng cười nhẹ của tác giả ở câu thơ này. Đây cũng là phong cách trào phúng nhẹ nhàng mà sâu lắng của nhà thơ Tú Xương. Câu thơ với những từ chỉ số lượng “năm con” đặt cạnh “một chồng” mang hàm nghĩa so sánh tương đương. “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng lại còn thêm “một” ông chồng chi phí bằng cả năm đứa con kia. Đây cũng là cách mà tác giả cười nhẹ về sự vô dụng của mình, đồng thời tác giả cũng bày tỏ sự trân trọng đối với vợ mình – người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng đặc sắc nhất của bài thơ nằm ở hai câu thực. Hai câu thơ với nhiều biện pháp tu từ nhằm gợi tả cụ thể hơn cuộc sống tảo tần, buôn bán ngược xuôi của bà Tú“Lặn lội thân cò khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông”“Lặn lội thân cò” là thành ngữ được tác giả mượn ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn nhiều. Tác giả đã dùng phép tu từ đảo ngữ – cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò nhằm nhấn mạnh nỗi vất vả, gian truân của bà Tú. Con cò là một ẩn dụ để chỉ người phụ nữ thân cô, thế cô trong một không gian rộng lớn đầy nguy hiểm nhưng cộng với “khi quãng vắng”, tác giả đã nói lên được cả không gian, thời gian heo hút, rợn ngợp chứa đầy lo âu, nguy hiểm của công việc đầy vất vả, đơn chiếc của bà Tú. Nó gợi lên một nỗi đau về thân phận những con người nghèo khổ trong xã hội đương thời. Nhưng nỗi vất vả mưu sinh không dừng lại ở lúc vắng lặng mà còn ở lúc đông người“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”Tác giả thật tài tình chỉ với một câu thơ bảy chữ đã nói lên được cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc, nguy hiểm, lo hoàn cảnh chợ đời đông đúc. “Buổi đò đông” đâu phải ít lo âu, nguy hiểm hơn “khi quãng vắng”? Hai câu thực đối lập nhau về từ ngữ nhưng lại cùng nhau làm nổi bật lên ý nghĩa của sự vất vả, gian truân của bà Tú. Với hai câu thơ này người đọc cũng cảm nhận được tấm lòng xót thương, yêu quý và trân trọng của nhà thơ dành cho vợ mình. Dưới ngòi bút của Tú Xương, bà Tú không những hiện lên là người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng con, mà còn là người giàu đức hi sinh“Một duyên hai nợ âu đành phậnNăm nắng mười mưa dám quản công”Dù “duyên” thì một mà “nợ” lại hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn mà lặng lẽ, chấp nhận hy sinh cho gia đình, chồng con. “Năm nắng mười mưa” được tác giả vận dụng sáng tạo, sử dụng thành ngữ mưa nắng nói lên sự vất vả, năm mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều để biểu thị sự vô cùng vất vả gian truân của bà Tú, nhưng bà vẫn “dám quản công” – chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con“Năm nắng mười mưa dám quản công”Mặc dù toàn bộ bài thơ là cảnh tả thực người vợ, là sự trân trọng, thương yêu của tác giả đối với vợ mình, nhưng ta vẫn cảm thấy đâu đó bóng dáng của ông Tú – tác giả. Ông không xuất hiện trực tiếp nhưng thông qua những câu thơ đầy yêu thương, trân trọng dành cho vợ và giọng điệu có phần trào phúng khi nói về mình, ta thấy được tình cảm sâu đậm của ông. Vì thương vợ, thương cho thân phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột trong gia đình, Tú Xương vừa tự trách bản thân mình là người chồng “hờ hững” vừa như mượn chuyện đời mình để lên án cho những định kiến khắt khe“Cha mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không!”Bài thơ có sự chuyển biến đột ngột, tác giả không còn ẩn mình sau những dòng thơ để tả thực về người vợ mà đã xuất hiện để nói thay, để trách ông chồng, để trách phận mình của bà Tú. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” là một tiếng chửi, chửi cái “thói đời” nhưng cũng là sự chửi mình, tự chửi một đống nam nhi đang trên đường công danh mà không giúp được vợ lại thành kẻ ăn bám. Nhưng nếu suy nghĩ tận cùng của sự việc, người đọc sẽ hiểu tại sao một người trí thức thời thực dân phong kiến lại không thể làm được một nhiệm vụ nhỏ trong hai nhiệm vụ “tề gia, bình thiên hạ” của nam giới. Trả lời câu hỏi này là ta đã đồng cảm được với ngụ ý của tác giả muốn lên án xã hội một cách nhẹ nhàng mà thâm phẩm “thương vợ” là một bản tự kiểm điểm bản thân được viết bằng thơ. Nhưng không đơn giản như thế, thông qua việc sử dụng từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm và cách vận dụng sáng tạo những chất liệu văn học dân gian, bài thơ đã thể hiện tình cảm thương yêu, quý trọng của ông Tú dành cho bà Tú , qua đó ca ngợi những phẩm chất cao đẹp như sự tảo tần, chịu thương, chịu khó và đức hy sinh của phụ nữ Việt Nam. Tác giả cũng thông qua sự những lời thơ tự trào phúng về sự bất lực của bản thân để lên án xã hội phong kiến thực dân thời bấy giờ chà đạp lên số phận của người phụ nữ. Ngày nay, phụ nữ nước ta hầu như đã được giải phóng, đã có một vị trí xứng đáng, đó là thành quả của công cuộc giải phóng dân tộc của cha ông ta. Lớp trẻ chúng ta thời nay nên trân trọng với những gì chúng ta có và nên cố gắng góp phần bé nhỏ của mình cho công cuộc kiến thiết đất nước càng giàu đẹp hơn, nhân dân ta càng hạnh phúc tích bài thơ Thương Vợ – Mẫu 2Có thể nói người phụ nữ trong xã hội hiện đại có vai trò và vị thế lớn trong cuộc sống, họ có được cuộc sống hạnh phúc và bình đẳng. Tuy nhiên, những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì không được may mắn như vậy họ phải chịu nhiều đắng cay, bất hạnh. Trong văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm nói về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến và bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương là một trong những tác phẩm phẩm nói về những nỗi cực khổ của người phụ nữ, điều làm cho nó càng trở nên đặc biệt chính là tác phẩm được viết khi người vợ tảo tần của ông vẫn đang còn Tế Xương 1870-1907 ông thường được gọi với cái tên Tú Xương. Tuy với cuộc đời ngắn ngủi chỉ sống được khoảng 37 tuổi nhưng thơ văn của ông khá đồ sộ với khoảng trên 100 bài, sự nghiệp thơ văn của ông dường như đã trở thành bất tử. Với tình yêu thương của một người chồng dành cho vợ ông đã sáng tác bài thơ để nói lên những cực khổ, hy sinh, của vợ mình dành cho chồng con. Với lời thơ giản dị mà sâu sắc Tú Xương đã thành công trong việc khắc hoạ cho người đọc cảm nhận được những khổ cực mà không chỉ có vợ ông mà là tất cả phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng. Ông tỏ thái độ tức giận với số phận đã được định đoạt từ trước của họ, tức giận với phong tục trong xã hội phong kiến đã đè lên đôi vai hao gầy của thể nói nhan đề “Thương Vợ” là cái tên hết sức mới lạ trong thơ văn trung đại, bởi với quan niệm trọng nam khinh nữ thì những bài thơ ca ngợi về người vợ là vô cùng hiếm hoi, với nhan đề ngắn gọn dễ hiểu, chỉ cần đọc qua nhan đề ta cũng có thể phần nào hiểu được nội dung của bài thơ muốn nói đến sự thương yêu của Tú Xương dành cho người vợ của sáu câu thơ đầu hiện ra một hình ảnh người vợ dầm mưa dãi nắng lo lắng cho chồng con mà không than trách chỉ biết ngậm ngùi chịu đựng và xem đó như một quy luật tự nhiên của người phụ nữ“Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.”“Quanh năm buôn bán” xuất hiện ở đầu bài thơ là mức độ buôn bán thường xuyên của bà Tú, từ tháng này qua tháng khác và từ năm này qua năm khác, không ngại nắng mưa bà đều đặn buôn bán ở “mom sông”cái nơi dường như quá quen thuộc với cuộc đời của người đàn bà ấy, chính là mảnh đất chông chênh nhô ra ở bên bờ sông đã giúp bà “nuôi đủ năm con với một chồng” tuy cuộc sống của bà có vất vả nhưng bà luôn chăm lo thương yêu chồng con hết mực không để cho ai phải thiếu thốn thứ gì. Nuôi con đã cực khổ nay lại phải còn gánh vác thêm việc nuôi chồng, đã khổ nay lại còn khổ hơn, miệng ăn của cả nhà đều trông đợi vào một mình bà, bà Tú như là trụ cột của gia đình. Tú Xương tuy không được may mắn trong con đường công danh sự nghiệp, nhưng ông cũng thật may mắn khi có người vợ biết chăm lo cho gia đình và không bao giờ than phiền dù cho cuộc sống có khiến cho bà mệt mỏi.“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”Tác giả đã sử láy “Lặn lội” để nhấn mạnh vợ của ông chính là người phụ nữ mạnh mẽ thế đấy bà không ngại lam lũ khó khăn gian khổ. Ngoài ra, tác giả mượn hình ảnh con cò để nói đến người vợ, một người phụ nữ với thân hình gầy gò, nhỏ bé lặng lội kiếm ăn không ngại nơi vắng vẻ. Vậy, tại sao tác giả lại mượn hình ảnh con cò mà không phải là một con khác? Chính vì hình ảnh con cò là biểu tượng cho người nông dân, người phụ nữ Việt Nam và là biểu tượng của người mẹ vất vả kiếm sống nhưng rất giàu đức tính hy sinh. Câu thơ khiến cho chúng ta liên tưởng đến hình ảnh con cò vất vả lam lũ trong những câu ca dao xưa“Con cò mà đi ăn đêmĐậu phải cành mềm lộn cổ xuống aoÔng ơi ông vớt tôi naoTôi có lòng nào ông hãy xáo măngCó xáo thì xáo nước trongĐừng xáo nước đục đau lòng cò con”Hay“Con cò lặn lội bờ sôngGánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.”“Cái cò đi đón cơn mưaTối tăm mù mịt ai đưa cò về…”Thế mới thấy được thân cò cực khổ biết nhường nào. Chính vì miếng cơm manh áo của chồng và các con người phụ nữ không màng đến những nguy hiểm đang rình rập nơi “quãng vắng” và ta không biết được rằng khi nào thì những thứ đáng sợ ấy sẽ xuất hiện. “Eo sèo” chính là những tiếng kì kèo, cãi vã chỉ để chắt chiu từng đồng qua những lần mua bán vào những buổi “đò đông” những buổi đò chen chúc tấp nập, thỉnh thoảng còn xuất hiện những cái xô đẩy, đó chính là cuộc sống mưu sinh vất vả của bà Tú chính là cái mà bà phải đối mặt hằng ngày. Chắc hẳn khi đọc đến hai câu thơ này ai cũng sẽ có những cảm xúc bổi hổi bồi hồi. Hai câu thơ như muốn nói lên những nguy hiểm khó khăn mà bà phải đối mặt, những giọt mồ hôi hoà với những giọt nước mắt.“Một duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản công.”Mối duyên do trời định đã cho hai người được gặp nhau, cái nợ đã khiến cho bà Tú phải khổ cực, nhưng bà đành gạt nó qua một bên mà chịu đựng và xem đó là lẽ thường tình. Tới chính bản thân bà Tú là một người phụ nữ nhưng bà cũng nghĩ rằng đã theo chồng thì việc chịu gian khó, cực nhọc hầu hạ, nâng túi sửa khăn cho người chồng đã là điều đương nhiên, có mệt có khổ âu cũng là thường tình, không việc gì phải trăn trở. Duyên thì chỉ có một nhưng nợ thì lại có tới hai, khổ cực thì nhiều nhưng hạnh phúc thì được bao nhiêu, cuộc sống không có một tí nào hạnh phúc cả đời chỉ biết dãi nắng dầm mưa không dám nghỉ ngơi, không dám đình công một ngày nào, nhưng đổi lại thì bà được cái gì cơ chứ? Cuộc sống của người đàn bà tại sao lại khổ như vậy? Nếu là bà Tú có lẽ tôi sẽ ước rằng mình là một người con trai và kiếp sau không gặp lại những người đã khiến cho tôi đau buồn, cuộc sống chỉ có nước mắt nhiều hơn là nụ cười. Họ cũng là con người chứ có phải cổ máy đâu mà luôn phải chịu đựng những bất công của xã hội, sinh ra phận đàn bà thì đã sao? Đàn bà thì cũng là con người, họ cũng có quyền được hạnh phúc? Tại sao chỉ đàn ông mới có quyền được hạnh phúc? Không thể nói thành lời những uất ức mà bà Tú và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu được những gánh nặng, vất vả của bà Tú, biết rằng bà không bao giờ trách móc, nên ông đã thay người vợ của mình để chửi cái xã hội bạc bẽo này và ông cũng chửi cả bản thân mình vì đã không làm tròn trách nhiệm của một người chồng, người cha.“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không”“Cha mẹ thói đời” câu thơ như gây ra một sự hiểu lầm cho người nghe, nhưng nếu suy nghĩ một cách kỹ lưỡng và tinh tế ta sẽ hiểu được rằng tác giả không phải nói đến cha mẹ của bà Tú cũng chẳng phải nói đến cha mẹ của ông Tú. Mà tác giả muốn thay vợ mình chửi cái thói đời trọng nam khinh nữ, những quan niệm cổ hủ khiến cho những người phụ nữ như bà không có được hạnh phúc. “Có chồng hờ hững” chửi sự vô tâm của bản thân, không giúp ích được gì, tự trách bản thân đã mải mê chạy theo con đường công danh, lí tưởng mà vô tình quên đi trách nhiệm của một người chồng, người trụ cột trong gia đình, để cho bà Tú phải bươn trải, lăn lộn quanh năm với cuộc sống, mọi gánh nặng dường như đè lên đôi vai hao gầy ấy. “Cũng như không” có chồng như ông thì bà Tú cũng chẳng sướng hơn, bởi vậy ông xem mình như người vô hình, vô tích sự không phụ giúp gì được cho câu kết là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi! Có thể nói bài thơ vừa là muốn nói lên những khổ cực của vợ vừa là một bản kiểm điểm ông viết ra dành cho ta thường nói “Trong cái rủi có cái may” bà Tú tuy cực khổ thiếu thốn về vật chất, nhưng bà có được cái mà nhiều người phụ nữ trong xã hội phong kiến không có và đó cũng là thứ mà Hồ Xuân Hương ao ước có được trong bài thơ “Tự Tình” đó là tình yêu thương của người chồng đó chính là món quà tinh thần mà không phải người phụ nữ nào cũng có được. Nếu được ban cho một điều ước tôi sẽ ước cho những người phụ nữ như bà không còn khổ nữa, họ xứng đáng có được hạnh phúc hơn bao giờ hết. Phụ nữ là để yêu thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Ngôn ngữ thơ bình dị như là tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách đây một thế kỷ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể bà Tú với “năm con, một chồng” vừa khái quát sâu sắc người phụ nữ ngày xưa. Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. “Thương vợ’” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt lại, bài thơ thương vợ mang lại một giá trị nhân văn vô cùng lớn cho người đọc, bài thơ. Chỉ với tám câu thơ tác giả đã thành công trong việc khắc hoạ bức chân dung tuyệt đẹp về hình ảnh người vợ, người mẹ với lời thơ đậm chất trữ tình và có pha chút trào trị viên website Với kinh nghiệm hơn 10 năm đi dạy và mong muốn tạo môi trường học tập miễn phí, tôi thành lập website này với mục đích chia sẽ kiến thức giáo dục đến học sinh các cấp tiểu học, THCS, THPT và Đại Học.
Cùng đón đọc dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ trong tài liệu văn mẫu của chúng tôi để em biết cách lập dàn ý một bài văn nghị luận văn học, bên cạnh đó hoàn thiện bài làm của mình sao cho ngắn gọn, đầy đủ và đáp ứng đúng yêu cầu đặt ra của đề bài. Bài viết liên quan Dàn ý phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ Dàn ý phân tích đoạn thơ "Dù em nên vợ nên chồng" đến hết đoạn Trao duyên Dàn ý phân tích bài thơ Chạy giặc để làm sáng tỏ ý kiến... Phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương Mục Lục bài viếtI. Dàn ý số 1II. Dàn ý số 2III. Dàn ý số 3IV. Bài văn mẫuĐề bài Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương3 bài mẫu Dàn ý phân tích bài thơ Thương VợI. Dàn ý phân tích bài thơ Thương Vợ của Tú Xương, mẫu 11. Mở bài- Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi- Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú2. Thân bàia. Hai câu đề- Hoàn cảnh bà Tú mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội "mom sông"+ Thời gian "quanh năm" làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác+ Địa điểm "mom sông"phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.⇒ Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định- Lí do+ "nuôi" chăm sóc hoàn toàn+ "đủ năm con với một chồng" một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư.⇒ Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng ⇒ hoàn cảnh éo le trái ngang+ Cách dùng số đếm độc đáo "một chồng" bằng cả "năm con", ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng Hai câu thực- Lặn lội thân cò khi quãng vắng có ý từ ca dao "Con cò lặn lội bờ sông" nhưng sáng tạo hơn nhiều cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò+ "Lặn lội" Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng+ Hình ảnh "thân cò" gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát+ "khi quãng vắng" thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ- "Eo sèo... buổi đò đông" gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc+ Buổi đò đông Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cranh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu- Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Hai câu luận- "Một duyên hai nợ" ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên "âu đành phận", Tú Xương cũng tự ý thức được mình là "nợ" mà bà Tú phải gánh chịu- "nắng mưa" chỉ vất vả- "năm", "mười" số từ phiếm chỉ số nhiều- "dám quản công" Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.⇒ Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Túd. Hai câu kết-Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi+ "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc" tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả- Tự ý thức+ "Có chồng hờ hững" Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời- Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.→ Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen Kết bài- Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung của tác phẩm- Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xẫ hội hôm nayII. Dàn ý phân tích bài Thương Vợ, mẫu 21. Mở bài- Thương vợ được viết khoảng năm 1896 - 1897. Bà Tú tên Phạm Thị Mẫn, là người vợ hiền thục đảm đang, tần tảo lo cho chồng con, nên tác giá rất quý trọng và có viết một số bài thơ về bà. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người bà Tú hiện ra phía trước, ỏng Tú khuất ở phía sau, nhìn kĩ mới nhận ra và hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân biệt, bài Thương vợ thể hiện lòng thương quý và biết ơn người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh cho chồng Thân bàia. Việc mưu sinh vất cả của bà Tú- Việc mưu sinh vất vả của bà Tú được diễn ta trong bốn câu Thời gian quanh năm, công việc buôn bán, không gian ở mom sông quanh năm bà Tú miệt mài buôn bán vất vả ở mom sông, lo liệu việc mưu sinh cho cả nhà và nuôi lũ con năm con, lại nuôi luôn cá chồng với một chồng. Lối nói úp mở vừa hóm hỉnh trong hai câu 1, 2 vừa nhấn mạnh lòng biết ơn pha lẫn sự ăn năn và tỏ ý thương quý bà Câu 3 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, có sử dụng biện pháp đảo ngữ lặn lội thân cò để diễn tả việc buôn bán vất vả của bà Tú, lặn lội cả những nơi vắng vẻ, nguy hiểm nơi quãng vắng. Câu 4 tả cảnh bà Tú phải chen chúc trên mặt nước vào những buổi đò đông, eo sèo mua bán thật tất bật, nhọc Vẻ đẹp của bà Tú- Bà Tú là ngươi đảm dang, tháo vát, chu đáo với chồng conNuôi đủ năm con với một Trong hai câu 5 và 6, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự quên mình của vợMột duyên hai nợ âu đành phận,Năm nắng mười mưa dám quản Duyên một mà nợ hai nhưng bà Tú không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo "năm nắng mười mưa", vừa nói lên sự vất vả gian truân, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Thói đời ăn ở bạcCha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như Trong hai câu 7, 8, giọng thơ như nguyền rủa thói ăn ở bạc bẽo của chính nhà thơ. Nhìn bề ngoài, quả thật ông chẳng những không chia sẻ với nỗi cực nhọc trong việc mưu sinh của gia đình, lại trở thành gánh nặng cho bà Tú, nên có cũng như không. Có vẻ như ông hờ hững, bạc bẽo đối với sự thật đáng chê Lởi chửi trong hai câu kết là lời Tú Xương rủa mát mình nhưng lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ông chửi "thói đời" bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân xâu xa khiến bà Tú phải khổ. Từ hoàn cảnh riêng, tác giả lên án thói đời bạc bẽo nói Kết bàiXã hội xưa "trọng nam khinh nữ", coi người phụ nữ là thân phận phụ thuộc. Một nhà nho như Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là "quan ăn lương vợ", không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế là một nhân cách Dàn ý phân tích Thương Vợ của Tú Xương, mẫu 31. Mở bàiGiới thiệu bài thơ Thương vợ- Ví dụ- Cuộc sống vợ chồng là một cuộc sống đầy khó khăn nhưng cũng rất hạnh phúc nếu vợ chồng biết chia sẻ những công việc và khó khăn với nhau. Một trong những tác phẩm tác giả thể hiện tình acmr của mình đối với những khó khăn của vợ là tác phẩm thương vợ của Tú Xương. Tú Xương là một người tài giỏi nhưng thì hoài không đổ đạt, cuộc sống của ông và các con để do vợ ông tần tảo tạo nên. Để thể hiện sự khâm phục và biết ơn của mình ông đã sáng tác nên bài Thương Thân bàia. Hai câu đề "Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng"- Miêu tả công việc của Tú Bà, quanh năm, buôn bán, mon sông một công việc mệt nhọc, siêng năng và rất nguy hiểm- Công việc làm tiên tục không nghỉ ngơi tại một nơi rất nguy hiểm- Đã thế còn nuôi 5 con với chồng sự tháo vác và khổ nhọc của Tú bàb. Hai cậu thực "Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông"- Dùng hình ảnh thân cò để nói lên hình ảnh người phụ nữ nhỏ bé- Hai câu thơ còn thể hiện sự nguy hiểm của công việc mà Tú bà làm- Nỗi gian truân, khổ cực của Tú bà- Thể hiện tình cảm của tác giả đối với vợc. Hai câu luận "Một duyên hai nợ âu cũng đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công"- Tác giả thể hiện tình cảm với vợ, sự khổ cực bao nhiêu thì tác giả phải cố gắng gấp nhiều lần hơn nữa- Sự hi sinh, nhẫn nhịn thầm lặng của tú bà- Tác giả thể hiện chung dung người phụ nữ Việt Namd. Hai câu kết "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không"- Tác giả tự nhận xét mình- Thể hiện sự bất công của xã hội đã khiến ông không thể gánh vác cùng vợd. Kết bàiNêu cảm nhận của em về bài Thương vợ- Ví dụ- Tú bà là hiện thân của hình tượng người phụ nữ Việt Nam, một con người chịu thương chịu khó và yêu chồng con hết mực. qua đó còn thể hiện những khó khăn và tủi nhục của những người phụ nữ Bài văn mẫu phân tích bài thơ Thương VợTú Xương là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ trào phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười làm vũ khí chế giễu và đả kích sâu cay bộ mặt xấu xa, đồi bại của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình người và tình đời sâu nặng.“Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền câu thơ đầu nói lên hình ảnh bà Tú trong gia đình là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn vấy quai cồng, tất tảchân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” câu đối của Nguyễn Khuyến thì bà Tú lại là một người đàn bà...Còn tiếp-HẾT- Trong chương trình học Ngữ Văn lớp 11 phần bài Thương vợ - Trần Tế Xương là một nội dung quan trọng các em cần chú ý Soạn bài Thương vợ đầy đủ. Ngoài ra, Phân tích bài thơ Thương vợ là một nội dung mà các em cần phải đặc biệt lưu tâm.
dàn ý phân tích bài thương vợ